0469. Nàng rằng nghề mọn riêng tay,
0470. Làm chi cho nặng lòng này lắm thân.
0471. So dần dây vũ dây văn,
0472. Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
0473. Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
0474. Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng xen nhau.
0475. Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,
0476. Nghe ra như oán như sầu phải chăng.
0477. Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
0478. Một rằng lưu thủy một rằng hành vân.
0479. Quá quan này khúc Chiêu Quân,
0480. Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
0470. Làm chi cho nặng lòng này lắm thân.
0471. So dần dây vũ dây văn,
0472. Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
0473. Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
0474. Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng xen nhau.
0475. Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,
0476. Nghe ra như oán như sầu phải chăng.
0477. Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
0478. Một rằng lưu thủy một rằng hành vân.
0479. Quá quan này khúc Chiêu Quân,
0480. Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Chú giải
- (0469) riêng tay: tay nghề, tay đàn của mình.
- (0470) lắm thân: lắm thay, lắm ru (theo Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim).
- (0471) dây vũ dây văn: vũ 武 là dây đàn to, văn 文 là dây nhỏ.
- (0472) cung thương: tên hai âm trong ngũ âm của nhạc cổ: cung 宮, thương 商, giốc 角, chủy 徵, vũ 羽. # chữ nôm khắc ở đây là “cung vấn” 宮問.
- (0473) Hán Sở chiến trường: là tên của một trong những bản nhạc xưa: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như, khúc Quảng Lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân.
- (0474) tiếng sắt tiếng vàng xen nhau: tiếng binh khí va chạm xen lẫn nhau. Ghi chú: các bản quốc ngữ phổ biến thường ghi là “tiếng sắt tiếng vàng chen nhau”. Xin theo ý kiến Nguyễn Hữu Vinh đọc là “tiếng sắt tiếng vàng xen nhau”.
- (0475) Tư Mã Phượng Cầu: Tư Mã Tương Như 司馬相如 và khúc Phượng cầu hoàng 鳳求凰 (chim phượng trống tìm chim phượng mái). Xem thêm chú giải: :0473: Hán Sở chiến trường.
- (0477) Kê Khang: 嵇康 (233-262) tên Thúc Dạ 叔夜, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy 安徽). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang. Ông là một trong Trúc Lâm thất hiền 竹林七賢. Sau bị Tư Mã Chiêu 司馬昭 giết. Khi lâm hình ông vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán 廣陵散. Ðàn xong nói: “Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”. Bắc Hành Tạp Lục 北行雜錄: Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu, Tì bà tân phổ bán Hồ Khương 嘆息廣陵絃絕後, 琵琶新譜半胡姜 (Kê Khang cầm đài 嵇康琴臺) Bài nhạc Quảng Lăng không kẻ nối, Tì bà điệu mới nửa Hồ Khương (Đặng Thế Kiệt dịch).
- (0477) Quảng Lăng: 廣陵. Xem chú giải (0477) Kê Khang.
- (0478) lưu thủy: như nước chảy.
- (0478) hành vân: như mây trôi.
- (0479) quá quan: 過關 đi qua cửa ải.
- (0479) Chiêu Quân: Vương Chiêu Quân 王昭君. Tản Đà: Ô hô Chiêu Quân, Sắc diễm tuyệt thế, Mệnh bạc vô thiên, Hán cung nhất biệt, Hồ địa thiên niên 嗚呼昭君, 色艷絕世, 命薄無天, 漢宮一別, 胡地千年 (Tế Chiêu Quân 祭昭君) Cô ơi cô đẹp nhất đời, Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua! Một đi từ biệt cung vua, Có về đâu nữa! Đất Hồ nghìn năm! (Nguyễn Thiện Kế dịch).
- (0480) tư gia: 思家 nhớ nhà.