Menu Đóng

Chương 2

Chúng tôi không ai nói đến tên hắn khi ngủ dậy, sau hôm hắn chết Phượng đã dậy trước khi tôi tỉnh ngủ và đã pha trà xong. Người ta ai lại còn ghen với người đã chết và sáng hôm đó tôi thấy như dễ dàng sống lại với Phượng cuộc sống ngày xưa.

– Tối nay cô ở lại đây? – Tôi hỏi Phượng với một vẻ cố làm ra tự nhiên nhất, khi tôi ăn chiếc bánh sừng bò.

– Em phải đi mang hòm của em về.

– Có lẽ cảnh binh đang ở đó. Ðể tôi đi cùng cô thì hơn.

Trong những lời chúng tôi nói với nhau ngày hôm ấy đó là những câu bóng gió gần nhất về hắn.

Pyle có một căn hộ trong một biệt thự mới gần phố Duranton, một phố kề ngay những đại lộ mà người Pháp luôn chia lại để gán cho những tên tướng của họ, vì thế mà quãng phố De Gaul từ ngã tư thứ ba trở thành phố Le Clerc và phố này trước sau chắc sẽ đột nhiên thành phố De Late. Chắc có một nhân vật quan trọng nào từ Âu châu vừa đáp máy bay sang, vì cứ 20 m lại có một cảnh binh đứng gác, mặt quay ra phía hè đường, trên con lộ dẫn tới dinh Cao uỷ.

Trên con đường đi trải sỏi đi đến nhà Pyle có nhiều xe máy đỗ: một viên cảnh sát người Việt xem tấm thẻ phóng viên của tôi. Hắn cấm không cho Phượng vào trong nhà và tôi đi tìm một sĩ quan người Pháp. Trong phòng tắm của Pyle, Vigo đang rửa tay bằng xà phòng của Pyle và cũng dùng khăn mặt của Pyle để lau tay. Cánh tay áo bằng vải trắng của y có vết dầu ăn; dầu của Pyle, tôi đoán như vậy.

– Có gì mới không? – Tôi hỏi.

– Chúng tôi thấy xe hơi của Pyle vẫn ở trong nhà chứa xe. Bình xăng rỗng. êm qua chắc hắn đi bằng xe tay, hay đi nhờ xe người khác. Có lẽ họ đã lấy hết xăng của xe hắn.

– Có lẽ hắn đi bộ, – tôi nói – Anh hiểu người Mỹ tính nết ra sao rồi đấy.

– Xe hơi của anh bị đốt cháy rồi phải không? – Vigo tư lự nói tiếp – Anh không thay xe mới à?

– Không.

– Ðiều này cũng chẳng quan trọng lắm.

– Ðúng thế.

– Anh có ý kiến gì không?

– Lắm ý kiến đấy.

– Nói nghe xem nào.

– À, HẮN CÓ THẺ BỊ VIỆT Minh giết. Họ đã giết khối người ở Sài Gòn. Xác hắn được tìm thấy ở gần cầu Ða Kao, mảnh đất của Việt Minh kiểm soát sau khi đêm đến, cảnh binh của các anh rút về. Hoặc hắn bị bọn liêm phóng Việt Nam giết, điều này có lần xảy ra. Có lẽ họ không ưng những người mà Pyle hay lui tới. Hắn cũng có thể bị bọn Cao ài giết vì hắn quen với tướng Thế.

– Hắn quen với tướng Thế thật à?

– Có tin đồn như vậy. Có khi lại chính tướng Thế giết hắn vì hắn quen với bọn Cao Ðài. Hay có thể bọn Hoà Hảo giết, vì hắn chấp chới với những bà vợ bé của tướng Thế. Trừ khi đơn giản hơn là người ta thịt hắn đi để lấy tiền.

– Hay vì ghen tuông thôi, – Vigo nói

– Cũng không nên quên cánh liêm phóng Pháp, – tôi tiếp, – Bọn này có lẽ không tán thành các hoạt động của hắn. Anh định tìm ra thủ phạm thật đấy à?

– Không. Tôi chỉ làm một bản báo cáo thôi. Hãy coi đó là một việc xảy ra trong cuộc chiến& mỗi năm có hàng nghìn người bị giết.

– Xin anh hãy loại tên tôi ra, – tôi nói – ra khỏi tất cả những gì liên quan – tôi nhắc thêm.

Ðiều này như một tuyên ngôn về thái độ của tôi. Phận làm người là thế, người ta đánh nhau, yêu nhau, ám sát lẫn nhau, tôi không muốn dính dáng vào đó. Những đồng nghiệp của tôi tự xưng là phóng viên, tôi ưng cái tên phóng viên, người đi làm phóng sự. Tôi viết ra những điều tôi nhìn thấy, tôi không hành động, có một quan điểm cũng là một cách hành động.

– Anh tới đây làm gì?

– Tôi lấy đồ của Phượng. Người của anh không cho cô ta vào.

– Thì cùng đi xem có thấy gì không?

– Vigo tử tế quá đấy!

Căn hộ của Pyle gồm hai phòng, một ngăn bếp và một phòng tắm. Chúng tôi vào trong buồng ngủ. Tôi đã biết nơi Phượng để hòm của cô, dưới cái giường. Chúng tôi lôi hòm ra: Hòm chỉ đựng sách tranh của cô. Tôi lấy từ tủ đứng ra những bộ đồ lèo tèo mà cô dùng để thay đổi, hai áo dài mới và một chiếc quần. Người ta có cảm tưởng là những thứ đó mới mắc ở đây vài giờ, không nằm trong bối cảnh của nhà này; chúng chỉ như tạt qua, như một con bướm lạc vào phòng. Trong một ngăn tủ, tôi thấy những chiếc quần lót hình tam giác và bộ khăn quàng của cô. Không có gì nhiều lắm để chứa vào hòm, ít hơn cả những đồ mà một người khách mang theo khi được mời đến nghỉ cuối tuần.

Trong phòng khách hẹp có tấm ảnh Phượng chụp chung với Pyle tại Thảo cầm viên, cạnh một con rồng đá lớn. Cô ta cầm dây buộc con chó của Pyle, một con chó giống Tàu lông đen, lưỡi đen. Tôi đút ảnh vào trong hòm.

– Con chó ra sao? – Tôi hỏi.

– Không thấy ở đây. Chắc hắn dắt theo.

– Có khi nó sẽ trở về và anh có thể nghiên cứu chất đất dính vào chân nó.

– Tôi không là Le Coq, cũng không là Megré và đang thời chiến mà.

Tôi đi qua phía kia phòng, xem hai ngăn đựng sách: thư viện của Pyle. Những bước tiến của Trung Hoa đỏ, Thách thức nền dân chủ, Vai trò của phương Tây. Tôi đoán đó là toàn bộ tác phẩm của York Hadin. Có hàng tập biên bản những cuộc tranh luận ở Quốc hội Mỹ, một cuốn sách học tiếng Việt, một cuốn lịch sử chiến tranh ở Phi Luật Tân, một cuốn sách của Shakespeare do Nhà xuất bản Thư viện Cận đại ấn hành. Hắn giải trí như thế nào? Tôi tìm thấy tại một ngăn khác những cuốn sách khác nhẹ nhàng hơn là một tác phẩm của Thomas Walfer, loại sách bỏ túi và một hợp tuyển bí hiểm mang tên: Cuộc chiến thắng của sự sống. Ngoài ra, có một số tác phẩm của các nhà thơ Mỹ. Có cả một cuốn sưu tập các ván cờ. Sau một ngày làm việc, đọc những thứ này thì không có gì giải trí lắm, nhưng, tính đến cùng đã có Phượng. Giấu sau cuốn hợp tuyển, có một cuốn sách bìa mỏng mang tên Sinh lý học trong sự kết hôn. Có lẽ hắn đã nghiên cứu về quan hệ nam nữ, cũng như đã nghiên cứu về Phương đông toàn qua sách. Và cái từ chìa khoá ở đây chữ kết hôn. Pyle là người theo quan điểm bao giờ cũng phải có sự cam kết hẳn hoi.

Bàn giấy của hắn không còn vương tí gì.

– Anh đã thu quét sạch giấy tờ, – Tôi nói.

– Ồ, TÔI ĐÃ PHẢI LÀM TẤT cả những việc đó nhân danh đoàn đại diện Mỹ, – Vigo nói, – Anh hiểu đó, những tin đồn lan đi rất nhanh. Căn nhà có thể bị vào lục soát cướp bóc sạch. Tôi đã cho niêm phong tất cả những giấy tờ của hắn.

Vigo nói rất nghiêm túc, không hề có cười cợt chút nào.

– Có những giấy tờ gì có thể gây phiền hà?

– Chúng tôi không thể tự cho phép mình thấy giấy tờ làm phiền hà liên lụy đến ai tại nơi ở của một người đồng minh, – Vigo đáp.

– Anh có cho phép tôi cuỗm đi một cuốn sách để làm kỷ niệm không?

– Tôi sẽ quay mặt đi, làm như không thấy.

Tôi chọn cuốn Vai trò phương Tây của York Hadin và nhét vào hòm cùng với quần áo của Phượng.

– Trên tình bạn thân, – Vigo hỏi, – Anh có điều gì có thể nói riêng với tôi không? Báo cáo của tôi đã làm xong và chấm hết. Pyle bị cộng sản ám sát. Có lẽ việc giết người này bắt đầu cho một chiến dịch chống lại viện trợ cho Mỹ. Nhưng riêng giữa tôi với anh& Này, nói với nhau ở đây thì khát đến bỏng họng mất, ra góc phố làm một cốc Vemus Catse đi, anh nghĩ sao?

– Chưa đến giờ.

– Hắn ta có tiết lộ điều gì với anh trong lần chót hai người gặp nhau không?

– Không.

– Bữa đó là ngày mấy nhỉ?

– Sớm qua, sau vụ nổ lớn&

Anh ta lặng yên, như để những điều tôi nói có thì giờ thấm vào trong óc của& tôi, chứ không phải vào trong óc của anh ta. Anh ta hỏi tôi một cách rất thật thà:

– Chiều qua, khi hắn tới thăm thì anh không có nhà hay sao?

– Chiều qua à? Chắc tôi đi vắng. Tôi nhớ không rõ.

– Một ngày nào đó, chắc anh sẽ cần có một thị thực để xuất cảnh. Anh biết rằng chúng tôi có thể để om cái thị thực đó vô thời hạn?

– Anh tưởng thật rằng tôi muốn trở về nước hay sao?

Vigo nhìn qua cửa sổ ra phía ánh nắng chói chang, trời không có lấy một bóng mây.

– Nhiều người lại muốn được trở về quê hương đấy, – Anh ta nói một cách buồn rầu.

– Tôi ở đây thấy dễ chịu hơn. Về nhà, tôi sẽ gặp phải& khối vấn đề.

– Mẹc! – Vigo thốt ra, – Tuỳ viên thương mại Mỹ đã đến kia (anh ta nhắc lại với một giọng chua chát): Tùy viên thương mại!

– Tôi chuồn thì hơn. Nếu không, hắn sẽ niêm phong cả tôi lại.

– Chúc anh gặp nhiều may mắn, – Vigo nói một cách mệt mỏi. Chắc hắn sẽ có lắm điều để nói chuyện với tôi đây.

Khi tôi ra cửa, viên tùy viên thương mại đứng cạnh chiếc xe Pắcca và cố giảng giải điều gì cho người lái xe. Ðấy là một con người giữa hai trạc tuổi, to béo, bộ mông quá ư đồ sộ và bộ mặt như chưa hề biết đến tác dụng của con dao cạo. Hắn gọi tôi:

– Fowler! Anh có thể giảng cho tên lái xe đáng nguyền rủa này&

Tôi giăng họ hắn ta.

– Ðây chính là những điều tôi vừa nói cho nó hiểu! – hắn kêu lên như vậy! – Nó cứ làm như không hiểu tiếng Pháp vậy.

– Ðó có lẽ do cách phát âm.

– Tôi đã qua ba năm ở Paris. Cách phát âm của tôi đâu đến nỗi tồi quá đối với thằng cha người Việt này!

– Tiếng nói của nền dân chủ, – tôi nói.

– Anh nói cái gì vậy?

– Ðó chắc là một tác phẩm của Yord Hadin.

– Tôi không hiểu anh (Hắn nghi ngờ ngó chiếc hòm tôi mang theo). Anh mang cái gì đấy?

– Hai đôi quần lụa trắng, hai áo dài lụa, những chiếc quần lót của phụ nữ, ba đôi thì phải. Toàn những sản phẩm của địa phương. Không có chút gì là của viện trợ Mỹ.

– Anh đã lên gác rồi à?

– Phải.

– Và đã hay tin?

– Phải.

– Ðó thật là một điều ghê gớm, – hắn nói, – ghê gớm!

– Tôi đoán chừng rằng ngài bộ trưởng hẳn đã bị xúc động.

– Tôi tin rằng anh đã nói đúng. Hiện nay ngài đang làm việc với Cao uỷ và xin tiếp kiến với tổng thống. (Hắn đặt bàn tay lên cánh tay tôi và kéo tôi ra xa những chiếc xe hơi). Anh quen biết thân với anh chàng Pyle trẻ tuổi đấy chứ? Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng một việc như vậy đã đến với anh ta. Tôi đã từng gặp cụ thân sinh ra anh ta, Giáo sư Haron C. Pyle. Anh đã nghe ai nói về ông ta chưa?

– Chưa hề.

– Ông ta là một nhân vật cỡ toàn cầu về khoa xói mòn dưới biển. Anh đã nom thấy ảnh ông ta trên bìa tờ tạp chí Taimơ tháng trước không?

– Ờ, BÂY GIỜ HÌNH NHƯ TÔI NHỚ RA RỒI. Ở PHÍA TRƯỚC là cặp kính gọng vàng và một bờ biển đang sụp đổ làm nền cho ảnh.

– Ðúng ảnh ông ta đấy. Tôi đã phải thảo bức điện cho người ta gửi đi. Một nghĩa vụ đau xót. Tôi đã yêu quý người bạn trẻ đó như yêu chính con tôi.

– Ðiều đó làm anh là một người thân thiết với ông cụ thân sinh?

Hắn quay lại tôi, cặp mắt màu nâu ứa lệ:

– Sao anh lại nói thế nhỉ? Ðó không phải là cách nói khi một người trẻ tuổi đáng mến&

– Xin lỗi nhé, – tôi nói, – cái chết không gây ra cảm xúc như nhau đối với tất cả mọi người (có lẽ hắn thực sự mến Pyle). Trong điện anh đã viết những gì?

Hắn tưởng tôi hỏi thật thà và trả lời một cách rất nghiêm chỉnh:

– Rất đau lòng báo tin để cụ biết con trai cụ đã hy sinh như một chiến sĩ đấu tranh vì lợi ích của nền dân chủ. Ngài bộ trưởng đã ký điện.

– Hy sinh như một chiến sĩ, – Tôi nói, – Ðiều đó có gây nên một sự mơ hồ không? Tôi muốn nói là mơ hồ đối với người trong gia đình Pyle. Phái đoàn viện trợ Mỹ không nên để nhập cục với quân đội. Người ta có phát cho anh ta huân chương Trái tim đỏ thắm không?

Bằng một giọng trầm, như nghẹn ngào về sự nhập nhằng, hắn tiết lộ với tôi:

– Anh ta được giao một nhiệm vụ đặc biệt.

– Rõ, rõ, mọi người đều đã đoán ra được.

– Nhưng chính anh ta không tiết lộ gì chứ?

– Ồ KHÔNG, – TÔI NÓI. VÀ câu nói của Vigo lại vẳng bên tai tôi: “Ðó là một người Mỹ rất trầm lặng”.

– Anh có điều phỏng đoán gì về nguyên nhân của vụ sát hại này không? Hay về hung thủ?

Tôi thấy như giận sôi lên. Tôi đã chán ngấy tất cả bọn này rồi. Họ với trữ riêng về coca cola, với những trạm cứu thương nhỏ lưu động, với những chiếc xe hơi to kềnh và những khẩu đại bác không phải là kiểu cổ.

– Có, – tôi đáp – Người ta đã giết hắn vì hắn ngây thơ quá không sống nổi. Hắn còn trẻ, dốt nát, dại dột và hắn đã dính vào những việc không có liên quan gì đến mình. Hắn không hiểu gì hơn anh về những điều đang diễn ra ở đây, và các anh đã đưa cho hắn tiền nong, sách của York Hadin viết về Phương đông; rồi các anh đã bảo hắn: “Lên đường đi. Hãy tới giác ngộ Phương Ðông về nền dân chủ”. Hắn nào thấy gì về những điều hắn đã nghe tả tại một phòng diễn thuyết; và những người viết, những người lên diễn thuyết và đã lừa bịp hắn. Ðứng trước một thi hài, hắn không phân biệt nổi những thương tích. Sự đe doạ của cộng sản, chiến sĩ của nền dân chủ đấy!

– Tôi tưởng anh là bạn thân của Pyle – Viên tuỳ viên nói với tôi một cách đầy trách móc.

– Tôi thật sự là người bạn thân của hắn. Tôi ao ước được thấy hắn bận rộn với việc đọc những phụ trương báo ngày chủ nhật ở ngay nhà hắn và chăm chỉ đi xem những trận đánh bóng chầy. Tôi ao ước được thấy hắn sống xa sự hiểm nghèo cạnh một cô bé người Mỹ đúng với khuôn mẫu, có đăng ký làm hội viên của một câu lạc bộ đọc sách.

Hắn ho ho như để đỡ tắc họng, rồi rất ngượng ngập, hắn trả lời:

– Lẽ tất nhiên. Tôi đã quên mất câu chuyện đáng tiếc kia. Tôi đã đứng hẳn về phía anh không dè dặt gì, anh Fowler ạ. Hắn quả không biết cách cư xử. Tôi chẳng ngại nói rằng tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với hắn về vấn đề người phụ nữ đó. Anh biết đấy, tôi đã có cái may là quen biết Giáo sư Pyle và phu nhân.

– Vigo đang chờ anh, – Tôi nói và bỏ đi.

Lúc này, hắn vừa nhận ra Phượng; khi quay đầu lại, tôi thấy hắn nhìn theo tôi với vẻ buồn bã và băn khoăn: đúng là ông anh to đầu muôn thủa này đã không hiểu gì hết.

Lần đầu tiên Pyle gặp Phượng, cũng lại là ở khách sạn Continental, hai tháng sau khi hắn tới Việt Nam. Lúc chập tối, trong bầu không khí mát mẻ ngắn ngủi tiếp theo sau khi mặt trời lặn và những cây nến đã được thắp lên tại các quầy hàng của các phố ngang dọc. Những con xúc xắc đổ lách cách xuống những bàn có những người Âu chơi và dọc theo phố Catina, những người phụ nữ trẻ quần lụa trắng đạp xe đi về nhà. Phượng uống một cốc nước cam vắt, tôi uống bia, hai chúng tôi lặng im, rất hài lòng được sống chung với nhau. Lúc đó Pyle lại gần, tìm cách nhập bọn và tôi giới thiệu hai người với nhau. Hắn ta có một cách nhìn kỳ lạ, nhìn trân trân những người phụ nữ y như từ nhỏ chưa gặp người đàn bà nào, sau đó hắn đỏ ửng mặt.

– Không rõ, – hắn nói – tôi có được phép mời bà và ông sang bàn của tôi không? Một trong những vị tùy viên& đó chính là tùy viên thương mại. Viên này từ trên sân thượng nghiêng xuống phía chúng tôi bộ mặt tươi rói, và nụ cười hể hả rộng mở như một lời hoan nghênh, chứa chan niềm tin, cái miệng cười của con người giữ được cả bạn bè vì nó biết dùng những loại thuốc khử mùi hảo hạng. Tôi đã nhiều lần nghe nói tên anh chàng Jo này, nhưng chưa hề biết đầy đủ cả tên lẫn họ. Hắn ầm ĩ giở trò kéo thêm ghế, gọi người phục vụ, tuy rằng ở cái khách sạn Continental này những trò đó cũng không làm xuất hiện thêm thức gì ngoài bia, cognac, soda và vemus casi.

– Tôi không ngờ được gặp anh ở đây, anh Fowler, – Jo nói. – Tôi đang chờ cánh chúng tôi sắp từ Hà Nội về. Hình như ở ngoài đó đánh nhau lớn thì phải. Anh không đi với họ à?

– Tôi đã ngấy cái việc bay trong 4 giờ để dự một cuộc họp báo rồi.

Hắn nhìn tôi với vẻ không tán thành.

– Bọn chúng tôi – hắn nói – rất hăng máu. Tôi biết, nếu họ muốn thì có thể kiếm gấp đôi khi đi làm cho đài phát thanh hay các việc kinh doanh khác, mà lại không bị nguy hiểm.

– Có lẽ ở đó người ta bắt họ làm việc.

– Họ như ngựa chiến ngửi thấy mùi thuốc súng – Jo tiếp tục say sưa nói, không hề để ý đến những ý kiến làm hắn không hài lòng. – Xem Bill Grand chẳng hạn, làm sao mà kìm chân lão ta khi có choảng nhau ở một nơi nào đó?

– Anh nói đúng hoàn toàn đấy – tôi đáp – hôm nay, tôi thấy anh chàng đứng giữa vụ choảng nhau ở quán rượu tại tiệm Sporkting.

– Anh hiểu thừa ra rằng tôi không định nói về loại choảng nhau đó.

Hai chiếc xe xích lô từ phía phố Catina xuống, chạy thật nhanh và hãm lại một cách rất ngoạn mục trước khách sạn Continental. Grăngtơ ngồi trong chiếc xe đầu. Chiếc xe thứ hai chở một ụ thịt xám xịt và lặng lẽ, mà Grand ra sức lôi kéo cho rơi xuống vỉa hè. “Ði lên, Mich, đi lên nào” – Grand vừa kéo vừa nói. Rồi hắn cãi lộn với người đạp xích lô về tiền công. “Thì đây, không lấy thì thôi”, nói rồi hắn vứt xuống vỉa hè số tiền đáng giá 5 lần tiền công với mục đích buộc người đạp xích lô phải cúi xuống nhặt lên.

Viên tùy viên, trong tình trạng bị kích động, nói:

– Những anh bạn tội nghiệp cũng phải xả hơi một chút.

Grand vứt xác nặng của hắn lên một cái ghế bành. Ðột nhiên nhìn thấy Phượng, hắn nói:

– £ này, ông bạn già Jo, & hay quá nhỉ, cậu kiếm được của này ở đâu đấy? Tớ chẳng bao giờ ngờ cậu lại có mèo đấy. Xin lỗi tớ đi vào nhà tiêu đã. Chăm sóc Mich hộ với!

– Rõ đồ lính tẩy! tôi nói.

Pyle lại đỏ mặt, trịnh trọng nói:

– Nếu biết trước, tôi đã không dám mời cả hai bạn&

Cái đầu màu xám ngọ nguậy trong chiếc ghế bành, rồi cái đầu rơi bịch xuống bàn y như nó không dính vào đây cả. Từ đống đó một tiếng thở dài phát ra, rồi đến tiếng rít chán chường không có gì đo được, rồi tất cả lại rơi vào sự im lìm.

– Anh có quen anh bạn này không? – tôi hỏi Pyle.

– Không. Chẳng rõ hắn có thuộc vào đoàn phóng viên?

– Tôi thấy Bill gọi anh ta là Mich – Anh chàng tùy viên đáp.

– Hình như có một phóng viên mới của hãng UP.

– Không phải anh này. Tôi quen với hắn. Hay người của phái đoàn kinh tế của anh? Làm sao mà anh biết tất cả người của anh được. Họ đông tới hàng trăm người.

Tôi không tin rằng hắn là người của phái đoàn. Tôi không nhớ đã gặp hắn lần nào.

– Ta hãy tìm xem giấy căn cước của hắn, – Pyle gợi ý.

– Tôi xin can, đừng đánh thức hắn. Một người say đã quá đủ rồi. Vả lại Grand quen với hắn.

Nhưng Grand cũng không biết nổi hắn là ai. Y mặt rầu rĩ từ nhà tiêu đi ra, hằn học hỏi

– ả này là ai thế?

– Cô Phượng là người tình của ông Fowler – Pyle đáp lại một cách cứng rắn – Chúng tôi muốn biết ai&

– Ông ta kiếm được ả ở đâu thế? Trong thành phố này phải cẩn thận đó nhé. Ơn trời đã ban cho chúng ta thuốc penicilline

– Bill – viên tùy viên nói – Chúng tôi muốn biết Mich là ai.

– Không rõ.

– Nhưng anh mang hắn tới cơ mà?

– Bọn lính dù không xài được Whisky. Hắn chẳng còn biết trời đất là gì nữa.

– Thế hắn là người Pháp à? Tôi tin rằng đã nghe thấy anh gọi tên nó là Mich.

– Thì cũng phải gọi nó bằng một cái tên gì chứ! – Grand đáp (Hắn nghiêng sang phía Phượng) và hỏi: Hê, cô bé này, một cốc nước cam ép nữa nhé. Tối nay có ai chưa?

– Tất cả mọi tối cô ta đều có bạn rồi – tôi nói.

Tùy viên thương mại vội vã can thiệp:

– Bill, anh hãy nói về chiến sự đi.

– Ðại thắng ở Tây Bắc Hà Nội. Người Pháp chiếm lại được hai làng. Họ chưa hề thông báo đã mất hai làng đó. Phía Việt Minh thiệt hại nặng. Người Pháp chưa có thì giờ tính những tổn thất của mình, nhưng một vài tuần nữa, chúng ta sẽ thông báo số thiệt hại đó.

– Có tin đồn rằng – tùy viên nói – Việt Minh đã đột nhập vào Phát Diệm, đốt nhà thờ và đuổi giám mục đi.

– Họ không muốn nói đến việc đó ở Hà Nội. Ðó không phải là một chiến thắng.

– Một trong các đội cấp cứu của chúng ta chưa bao giờ đi được quá Nam Ðịnh – Pyle nói.

– Anh đã đi tới đó lần nào chưa, anh Bill? – Viên tùy viên hỏi?

– Anh coi tôi là người như thế nào? Tôi là một phái viên đi đâu phải có lệnh đi lại, nếu đi quá vi phạm quy định thì lộ tẩy ngay. Tôi đáp máy bay ra Hà Nội. Người ta đem xe ra rước về Trại báo chí. Họ cho bay trên hai thành phố họ vừa chiếm lại được và chỉ cho xem những là cờ tam tài treo trên đó. Bay ở độ cao như vậy thì, trời ơi, cho là cờ gì chẳng được. Sau đó chúng tôi dự một cuộc họp báo, ở đó một viên đại tá cho chúng tôi hiểu đã nhìn thấy những cái gì. Thế rồi chúng tôi thảo những bức điện đưa cho phòng kiểm duyệt. Rồi uống một vài loại rượu. Người phục vụ quầy rượu giỏi nhất Ðông Dương. Thế rồi lên máy bay trở về.

Pyle cau mày ngắm cốc bia của mình.

– Anh tự đánh giá mình thấp quá đấy, anh Grand ạ – viên tùy viên nói. – Xem nào, cái bài viết về con đường số 66, anh cho nó cái tên là gì nhỉ? à, đại lộ của địa ngục. Thật chẳng thua gì Puliz 1. Anh hiểu tôi nói đến câu chuyện gì chứ: Con người quỳ trong chiến hào đầu bị chặt đứt và còn một người nữa thì anh nhìn thấy trong giấc mơ.

– ồ, anh tưởng tôi đã thật sự đi dạo trên con đường chết tiệt đó hay sao? Stephan Kren 2 đã mô tả một cuộc chiến tranh mà chưa hề tới chiến trường. Tại sao tôi không làm được như vậy? Vả lại đây chỉ là một cuộc chiến tranh cướp thuộc địa quèn. Cho tớ uống đi. Rồi đi kiếm gái. Các anh đã có những bộ mông rồi. Tôi cũng đang cần mông đây.

– Anh cho rằng có điều gì thật trong những tin đồn về sự việc xảy ra ở Phát Diệm không? – Tôi hỏi Pyle.

– Tôi cũng không hay biết gì. Việc này có quan trọng không? – Tôi hỏi Pyle.

– Tôi cũng không hay biết gì. Việc này có quan trọng không? Nếu quan trọng thì tôi cũng muốn tới ngó qua xem.

– Quan trọng cho phái đoàn thương mại ư?

– ồ, anh hiểu đấy, người ta không thể phân chia rạch ròi được. Công việc y tế cũng là một binh chủng, xét cho đến cùng là thế. Những người theo đạo Thiên Chúa ở đây chắc cũng chống cộng dữ lắm, phải không?

– Họ cũng móc ngoặc với cộng sản. Giám mục ở đó mua của cộng sản trâu bò và tre pheo để làm nhà. Tôi chưa dám nói họ đã là lực lượng thứ ba như York Hardin viết đâu, – tôi thêm vào để chọc Pyle.

– Chấm dứt cuộc họp thôi! – Grand la lên – Tôi không muốn tiêu phí cuộc đời ở nơi đây. Dạo một vòng qua nhà năm trăm gái điếm đi!

– Các bạn – cô Phượng và anh – có thể nhận lời ăn bữa tối với tôi không? – Pyle hỏi tôi

Grand ngắt lời, nói:

– Các cậu tới chén ở khách sạn Sale, trong khi tớ làm trò hôn hít ở những nhà lợp tôn ngay bên cạnh. Ði đi, Jo… ít nhất anh cũng là một người đàn ông.

Tôi cho rằng chính lúc đó, khi tôi tự nghĩ đàn ông phải làm thế nào, lần đầu tiên tôi có thiện cảm với Pyle. Hắn ngồi hơi né ra để tránh Grand và xoay xoay cốc bia bằng những ngón tay, với một vẻ cố ý xa xôi.

– Tôi đoán – hắn nói với Phượng – Cô phải chán ngấy những câu chuyện & có liên quan đến xứ sở của cô, tôi định nói thế.

– Gì cơ ạ?

– Phải làm thế nào với Mich bây giờ? – viên tùy viên hỏi.

– ể mặc hắn ở đây – Grand đáp.

– Sao lại thế được, tên họ của hắn, chúng ta cũng không biết.

– Có thể đưa hắn đi cùng và để bọn gái làng chơi săn sóc cho.

Viên tùy viên phát ra một tiếng cười như trong quảng cáo: Mặt hắn giống hệt một bộ mặt trên màn ảnh vô tuyến truyền hình.

– Các người còn trẻ – hắn nói – muốn đi đâu thì đi. Tớ, tớ quá tuổi để làm các trò như các cậu. Tôi đưa anh chàng này về nhà tôi. Cậu bảo hắn ta là người Pháp à?

– Hắn nói tiếng Pháp.

– Các cậu đưa hắn vào xe tớ hộ.

Sau khi hắn đi rồi, Pyle đi chung một xe xích lô với Grand, còn Phượng và tôi cũng đi theo trên đường đi vào Chợ Lớn, trên một chiếc xe khách. Grand định lên cùng xe với Phượng, nhưng Pyle đã gạt hắn ra. Trong khi những người đạp xe đưa chúng tôi trên con đường ngoại ô dài tới cái thành phố Hoa kiều, một đoàn xe cơ giới Pháp vượt lên; trên một chiếc xe có một khẩu đại bác vươn cổ lên và một sĩ quan bất động và im lặng hệt như một pho tượng gỗ sau những chiếc tàu, dưới vòm trời đen thẫm, khum khum, nhẵn nhụi, dát đầy sao. Chắc lại có xảy ra xung đột với một đạo vệ binh, quân Bình Xuyên đang ngự trên đầu đại thế giới và tất cả các dòng sông bạc ở Chợ Lớn. Nước này đang nằm trong tay các sứ quân, y như một nước châu Âu thời Trung cổ vậy. Thế còn người Mỹ, họ ở đây làm gì? Ông Colome chưa tìm ra lục địa của họ sao?

– Anh chàng Pyle này coi bộ dễ thương – tôi nói với Phượng.

– Anh ta trầm lặng – Phượng nói.

Cái định ngữ này, mà Phượng là người đầu tiên dám cho hắn, sẽ dính với hắn như một biệt danh của một học sinh cho đến khi tôi nghe chính Vigo cũng gọi hắn như thế, khi cái anh chàng Vigo cặp mắt ẩn sau một cái lưỡi trai màu xanh, nói về cái chết của Pyle.

Tôi cho đỗ xe trước quán cơm Sale và nói với Phượng:

– Cô vào kiếm chỗ ngồi ăn. Tôi phải chăm sóc Pyle một chút.

ây là cử chỉ theo bản năng của tôi: bảo vệ hắn. Chưa hề khi tôi nghĩ bản thân tôi cần phải có một sự bảo vệ lớn như vậy. Sự thơ ngây bao giờ cũng gửi cho sức mạnh hộ mệnh một lời cầu nguyện thầm lặng, trong khi đáng lẽ khôn ngoan hơn chúng ta phải tự vệ chống lại sự ngây thơ. Sự ngây thơ giống như một người câm mắc bệnh phong lại để rơi mất cả chiếc chuông báo hiệu, cứ đi lang thang khắp mọi nơi, tuy không hề có ác ý. Khi tới nhà năm trăm gái điếm, Pyle và Grand đã vào rồi, tôi hỏi ở bót quân cảnh gác ngoài cổng:

– Hai người Mỹ?

Một viên cai lê dương trẻ tuổi đang trực gác. Hắn ngưng việc lau khẩu súng ngắn, lấy ngón tay cái chỉ cho tôi chiếc cửa sau lưng hắn, và nói đùa một câu gì bằng tiếng Ðức mà tôi không hiểu.

Trong cái sân lộ thiên rộng thênh thang, người ta đang giải lao. Hàng trăm người đàn bà nằm trên cỏ hay ngồi xổm trên gót chân nói chuyện với nhau. Người ta không buông rèm trước những ngôi nhà bao quanh sân và một cô gái mệt mỏi nằm trên giường, chân nọ chồng lên chân kia. ở Chợ Lớn đang lộn xộn, binh lính bị cấm trại, gái điếm không có khách, một ngày chủ nhật cho xác thịt nghỉ. Chỉ có một số cô gái la lối, vừa đùa nghịch cho biết trong cái góc này, vẫn còn có sự làm ăn . Tôi lại nhớ tới mẩu giai thoại về một vị khách quý bị lột mất cả quần, mới trốn thoát vào bót cảnh sát. ở đây, người thường không được bảo hộ khi vào săn trộm trên mảnh đất của nhà binh, thì phải tự bảo về mình và tự tìm cách thoát thân.

Tôi đã học được một kỹ thuật là chia rẽ để chiến thắng. Tôi đã chọn lấy một cô trong số đông đặc các cô bao vây tôi và tôi từ từ dẫn cô ta lại với Pyle và Grand đang vật lộn.

– Tôi già rồi – tôi nói – hết cả gân cốt rồi. (Cô gái cười một cách ngốc nghếch và áp người vào tôi). Anh bạn kia mới lắm tiền và khoẻ lắm.

– Bẩn thế! – Cô gái nói.

Tôi trông thấy Grand mặt đỏ ửng và đắc chí; hắn có thể cho rằng bọn gái bu lại do sự cường tráng của hắn. Một cô khoác tay Pyle và tìm cách kéo anh ta thoát khỏi vòng vây. Tôi đẩy cô gái tôi đã kéo theo vào giữa vòng và gọi:

– Lại đây, Pyle ơi.

Pyle nhìn qua đầu các cô và nói:

– Thật là ghê gớm, ghê gớm.

Mặt hắn nhợt nhạt, có thể do nhiều ngọn đèn khác màu chiếu vào. Tôi chợt nghĩ anh chàng có lẽ còn là trai tân. Tôi lại gọi:

– Lại đây, để mặc cho Grand.

Tôi nom thấy hắn đưa tay vào túi áo. Tôi tin rằng hắn định lôi ra tất cả tiền đỏ, tiền xanh để trong đó. Tôi sẵng giọng kêu lên:

– ừng có làm trò ngốc. Anh sẽ gây ra một cuộc đánh lộn lớn bây giờ.

Cô gái lại lộn lại với tôi: Tôi lại đẩy cô vào trong vòng các cô đang bao vây Grand.

– Không, không – tôi nói – tôi là một người Anh nghèo, rất nghèo.

Nói rồi tôi nắm tay áo Pyle kéo ra khỏi đám đông; cô gái kia vẫn bám lấy cánh tay kia của hắn như một con cá mắc phải lưỡi câu. Vài ba cô gái định cản đường ra cổng của chúng tôi, nơi anh cai vẫn theo dõi, nhưng các cô này cũng không hăng lắm.

– Tôi phải làm gì với cô này, – Pyle hỏi.

– Cô ta sẽ không làm phiền anh nữa đâu.

Ngay lúc đó, cô bỏ tay Pyle và lại lao vào cuộc tranh nhau quanh Grand.

– Anh ta liệu có nguy không? – Pyle lo lắng hỏi.

– Hắn muốn có mông thì phải mông đấy.

ở ngoài đường, đêm có vẻ rất yên tĩnh, ngoài việc một đoàn xe thiết giáp nữa vẫn do những người có vẻ quyết tâm kia lái đi.

– Ghê quá – Pyle nói. – Không bao giờ tôi có thể ngờ thế được (Và anh ta nói thêm một nỗi vừa buồn vừa sợ). Mà họ đẹp như thế!

Anh ta không thèm khát được ở vào chỗ Grand. Anh ta than vãn rằng có những cái tốt đẹp – sắc đẹp và duyên dáng chắc chắn là những cái tốt đẹp – đã bị chà đạp đầy đọa. Pyle trông thấy điều đau khổ khi những điều đau khổ đó chọc vào mắt anh (Ðó không phải là một lời mỉa mai: xét cho kỹ, nhiều người trong chúng ta cũng không trông thấy đâu).

– Về quán Sale thôi – tôi nói – Phượng đang chờ.

– Xin lỗi – anh ta nói – tôi quên phắt đi đấy. Ðáng lẽ, anh không được xa cô ta.

– Có phải cô ấy gặp nhiều nguy hiểm đâu.

– Tôi tính đi hộ vệ cho Grand (Anh ta lại bị chìm đắm trong những ý nghĩ của mình, những lúc bước qua cửa tiệm Sale, anh ta vẫn nói thêm như là nạn nhân của một sự khốn quẫn hắc ám). Tôi quên rằng còn có bao nhiêu người.

Phượng đã giữ cho chúng tôi một bàn ăn ngay sát vòng khiêu vũ và dàn nhạc chơi một bài 5 năm trước rất phổ biến ở Paris. Hai cặp người Việt nhỏ người, tinh tươm, đang nhảy với nhau, không ôm sát nhau, với vẻ lịch sự mà chúng tôi không sao bì được (Tôi nhận ra một trong hai cặp: vợ chồng viên kế toán của Ðông Dương Ngân hàng). Người ta có cảm giác là họ không bao giờ ăn mặc luộm thuộm, không bao giờ nói một lời lạc điệu, không bao giờ là nạn nhân của một sự đam mê quá đáng. Trong khung cảnh của cuộc chiến tranh kiểu Trung cổ này, họ tượng trưng cho thế kỷ thứ 18 đang đi tới. Người ta chờ đợi ông Phạm Văn Từ ấy sáng tác những bài thơ cổ điển kiểu Augustin, nhưng do một sự bất ngờ tôi lại được biết ông đang nghiên cứu Wordsworth và làm thơ ca tụng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Ông nghỉ hè ở Ðà lạt, nơi gần gũi nhất với không khí của những hồ kiểu Anh Cát Lợi. Khi đi qua, ông hơi nghiêng mình. Tôi tự hỏi phía trên cách đây 50 m, Grand đang làm gì để thoát thân.

Bằng một thứ tiếng Pháp phát ghét, Pyle xin lỗi Phượng vì đã phải để cô chờ lâu.

– Thật không sao tha thứ nổi – hắn nói.

– Các anh đã đi đâu? Phượng hỏi.

– Tôi đi theo Grand, hắn về nhà.

– Về nhà? – tôi nhắc lại và cười phá ra.

Và Pyle đã nhìn tôi như tôi là một Grand thứ hai vậy. Bỗng nhiên tôi tự nhìn tôi bằng cặp mắt của hắn. Quá tứ tuần, mắt hơi vân tím màu đỏ, bụng hơi xệ, một người tình vô duyên, hắn không ồn ào như Grand nhưng trơ trẽn hơi, ít ngây thơ hơn. Và trong thoáng lát, tôi như nhìn lại thấy Phượng như khi tôi gặp cô lần đầu, lúc cô đang khiêu vũ tại Ðại Thế Giới 1 lượn sát bàn tôi, trong bộ đồ dạ hội màu trắng, 18 tuổi, dưới sự kèm cặp của bà chị, bà này quyết tâm làm cho cô kết hôn được một cách béo bở với một ông chồng người Âu. Một ông khách Mỹ đã mua phiếu rồi tới mời cô nhảy. Hắn, nếu không say một cách nguy hiểm, thì cũng ngà ngà và tôi đoán rằng vì mới bước chân đến đất nước này, hắn tưởng các cô chiêu đãi viên của Ðại Thế Giới đều là gái điếm cả. Hắn đã ghì chặt cô bé ngay từ khi nhảy vòng đầu và cô ta vùng vằng bỏ chạy về ngồi cạnh bà chị, ông khách Mỹ cứ như bị pan, ngập giữa những người đang nhảy, không hiểu cái gì đã xảy ra và vì sao xảy ra. Và cô thiếu nữ mà tôi còn chưa biết tên thì điềm nhiên ngồi kia, uống từng ngụm nước cam nhỏ, rất tự chủ.

– Tôi rất hân hạnh – Pyle nói với cách phát âm đáng tởm của hắn. Một lát sau, tôi thấy họ đang nhảy với nhau ở phía đầu phòng. Pyle giữ cô cách xa hắn đến nỗi như họ sắp sửa tuột khỏi tay nhau. Hắn nhảy rất dở, còn Phượng lại là người nhảy giỏi nhất mà tôi biết trong khi cô còn làm việc tại Ðại Thế Giới.

Tôi phải ve vãn Phượng rất lâu và nhiều lúc đến nản chí. Giả thử tôi xin kết hôn đàng hoàng và cho cô một món của thì mọi việc đã dễ dàng và bà chị cô sẵn sàng biến mất một cách tế nhị và lặng lẽ mỗi khi chúng tôi gặp nhau. Nhưng suốt trong ba tháng, tôi không làm sao gặp riêng một mình cô được, dù chỉ là một lát trên ban công của khách sạn Magestic, bà chị từ phòng bên luôn gọi với ra, hỏi bao giờ thì đi về. Trên sông Sài Gòn, dưới ánh trăng, người ta bốc dỡ hàng từ một tàu vừa từ Pháp tới, tiếng chuông xe xích lô leng keng như tiếng chuông điện thoại, nghĩ lại những điều tôi đã nói với cô, tôi thấy mình có thể là một thằng cha đần độn, thiếu kinh nghiệm. Tôi trở về với cái giường của tôi phố Catina không một bóng hy vọng và tôi không bao giờ có thể tượng được rằng, bốn tháng sau, cô đã nằm dài cạnh tôi, hơi hổn hển thở và cười như cô cũng ngạc nhiên, thấy không có cái gì giống với những điều đã dự kiến.

-Ông Fowler!

Vì nhìn theo họ nhảy với nhau, tôi không thấy bà chị cô ở một bàn khác và ra hiệu cho tôi. Bà ta đi dọc qua phòng và tuy chẳng thích chút nào, tôi cũng phải mời bà cùng ngồi vào bàn. Chúng tôi không thân thiết với nhau kể từ khi bà khó ở và tôi phải đưa hai chị em về nhà họ.

-Ðến một năm nay không nom thấy ông.

-Tôi thường phải ở Hà Nội.

-Bạn của ông là ai đó?

– Một người tên là Pyle.

– Ông ta làm gì?

– Làm việc ở phái đoàn thương mại Mỹ. Việc của họ là thế này nhé: Cấp những máy khâu điện cho những người thợ may đang chết đói.

– Có máy không?

– Không rõ.

– Nhưng có ai lại dùng máy khâu điện đâu, nơi họ ở làm gì có điện.

Bà ta hiểu theo nghĩa đen những câu nói của tôi.

– Phải bảo điều đó cho ông Pyle rõ – tôi nói.

– Ông ta có vợ chưa?

Tôi nhìn ra nơi họ đang nhảy.

– Tôi tin rằng hắn chưa bao giờ gần một người đàn bà nào như lúc này.

– Ông ấy nhảy dở lắm.

– Rất dở.

– Nhưng nom có vẻ dễ thương và tin cậy được.

– Ðúng.

– Tôi có thể ngồi nán ở đây một lát không? Những ông bạn cùng đi với tôi chán òm.

Âm nhạc dừng. Pyle cúi chào Phượng một cách cứng quèo, dẫn cô về, giữ ghế chờ cô ngồi. Tôi thấy cô tán thưởng việc tôn trọng những lề thói xã giao đó. Tôi chạnh nghĩ đến việc tôi không làm được như vậy và hẳn cô đã không hài lòng.

– Xin giới thiệu bà Hải, chị cô Phượng – tôi nói với Pyle.

– Rất sung sướng được làm quen với bà – hắn vừa nói vừa đỏ mặt.

– Ông từ New York tới? – bà Hải hỏi.

– Không, từ Boston.

– Cũng là trong nước Mỹ.

– Vâng, à vâng.

– Cụ thân sinh ra ông là một nhà kinh doanh?

– Không hẳn thế, cụ là giáo sư

– Ði dạy học? – Hải hỏi, lộ vẻ hơi thất vọng.

– Không, không, cụ là một nhà chuyên môn cự phách, bà hiểu cho. Người ta phải đến để cụ ban cho ý kiến.

– Về sức khoẻ của họ ư? Vậy ra cụ là bác sĩ?

– Không phải bác sĩ theo kiểu đó. Tuy nhiên, cụ cũng là một nhà thông thạo trong lĩnh vực nghiên cứu về công nghiệp. Cụ hiểu biết tất cả những điều gì người ta có thể hiểu về xói mòn dưới biển. Bà hiểu đó là cái việc gì chứ?

– Không.

Pyle liền buông một câu nói đùa:

– Thế thì xin để ông cụ giảng cho rõ thôi.

– Cụ ở đây ạ?

– ồ, không.

– Thế cụ sắp sang?

– Không đâu. Tôi nói thế để giỡn một chút mà – Pyle giảng giải như để xin lỗi.

– Bà có một cô em khác? – tôi hỏi bà Hải.

– Có đâu. Tại sao ông hỏi vậy?

– Tại thấy bà lục vấn ông Pyle như để làm mối cho ông ta lấy ai vậy.

– Tôi chỉ có một em gái – Hải nói – và bà đặt mạnh bàn tay lên gối Phượng, như một vị chủ toạ hội nghị gõ mạnh búa xuống bàn để nhắc cho mọi người giữ trật tự.

– Ðó là một cô em rất đẹp – Pyle nói.

– Cô gái đẹp nhất Sài Gòn – Hải đáp, như để bổ sung cho ý kiến của Pyle.

– Tôi dễ dàng tin như vậy.

– Ðến lúc gọi các món ăn rồi – tôi lên tiếng – Cô gái đẹp nhất Sài Gòn cũng phải ăn đấy.

– Tôi không đói – Phượng nói.

– Em nó mảnh dẻ lắm đấy – Hải nói tiếp, như đe dọa ai một cách quả quyết – Nó rất, rất chung thuỷ, thật thà.

– Ông bạn tôi là một người may mắn – Pyle nói một cách nghiêm trang.

– Cô ấy quý trẻ con lắm đấy – Hải nói.

Tôi phá lên cười, rồi bắt gặp cái nhìn của Pyle: Hắn nhìn tôi với cái vẻ vừa ngạc nhiên, vừa bất bình và tôi bỗng hiểu rằng hắn ta thành thật quan tâm đến những điều mà Hải nói. Trong khi gọi các món ăn (tuy Phượng nói là không đói, tôi biết cô ta có thể ngon lành chén sạch món bít-tết kiểu Tác-ta kèm với trứng và bao nhiêu thứ phụ khác), tôi nghe Pyle bàn một cách nghiêm trang vấn đề con cái.

– Tôi bao giờ cũng mong có nhiều con – Pyle nói – Một gia đình đông con là một vấn đề kỳ diệu cần quan tâm. Nó làm cho hôn nhân được ổn định. Mặt khác, đối với con trẻ, nó rất bổ ích. Tôi không có anh chị em gì cả. Làm con một, thật là một sự thiệt thòi.

Chưa bao giờ tôi nghe thấy hắn nói một thôi dài như vậy.

– Cụ thân sinh ra ông bao nhiêu tuổi? – Hải hỏi một cách ngấu nghiến.

– Sáu mươi chín.

– Những người già thích có nhiều cháu. Rất tiếc rằng cô em tôi không còn cha mẹ nữa để các cụ được hưởng niềm vui khi cô ta sinh ra một lũ con -chẳng biết ngày nào – Hải vừa nói thêm, vừa nhìn tôi một cách ảm đạm.

– Hay là vui với các con của bà – Pyle nói – tôi nghĩ câu này thật là nhàm.

– Bố tôi cũng là con nhà dòng dõi. Cụ đã làm quan ở Huế.

– Tôi đã bảo mang cơm lên cho cả bốn người – tôi nói.

– Tôi xin kiếu – Hải nói – tôi phải nhập lại bọn với những người bạn của tôi. Tôi mong được gặp lại ông Pyle, ông Fowler chắc có thể thu xếp hộ được.

– Khi tôi ra Bắc về.

– Anh ra Bắc sao?

– Tôi cho rằng đã đến lúc tôi phải ngó qua chiến sự một cái.

– Nhưng tất cả các phóng viên đã trở lại – Pyle nói.

– Ðó là lúc tốt nhất để tôi đi. Tôi sẽ không bị bắt buộc phải nói chuyện với Grand.

– Thế thì ông Pyle phải đến chơi, xơi cơm với chị em chúng tôi để cô em tôi đỡ buồn – Hải nói thêm, về xã giao một cách buồn thiu.

– Thật là một người phụ nữ dễ thương và có học thức – Pyle nói khi Hải đã đi – Sao bà ta nói tiếng Anh cừ làm vậy?

– Nói hộ với ông ta là chị tôi tham gia những việc kinh doanh ở Singapore – Phượng tự hào nhờ tôi nói.

– Thật ư? Kinh doanh gì?

Tôi dịch:

– Xuất nhập khẩu. Bà ấy biết cả tốc ký.

– Chúng tôi cần có những người như vậy trong phái đoàn thương mại.

– Tôi sẽ nói với chị tôi – Phượng nói – bà ưng làm việc cho người Mỹ lắm đấy.

Sau bữa ăn, họ lại khiêu vũ với nhau. Tôi nhảy cũng không giỏi, nhưng tôi không có sự thiếu ý thức của Pyle. Tôi tự hỏi không hiểu tôi có thiếu ý thức khi tôi bắt đầu mê Phượng không? Phải trải qua nhiều buổi đáng ghi nhớ là bà chị Hải bị khó ở và tôi đã khiêu vũ với Phượng với mục đích duy nhất là để được nói với cô. Pyle không sử dụng được cơ hội này khi họ nhảy đi nhảy lại, hắn chỉ có vẻ bớt ngượng ngập thôi, giữ Phượng bớt xa mình hơn một chút, nhưng cả hai đều không chuyện trò gì với nhau. Bỗng nhiên, khi nhìn đôi bàn chân Phượng, nhỏ nhắn bước chính xác, đang hướng dẫn những bước chân nặng nề của người cùng nhảy, tôi lại thấy yêu Phượng như xưa. Thật là khó mà tin được rằng sau một, hai giờ nữa cô lại trở về cùng tôi trong cái nhà nhớp nháp, với chuồng xí chung, với những mụ già ngồi xổm ở bậc thang gác.

Tôi tiếc rằng đã nghe những tin đồn về Phát Diệm, tôi vẫn mong cho chiến sự diễn ra nơi khác ngoài cái thành phố duy nhất ở miền Bắc mà tôi được tự do đột nhập lẩn tránh được mọi sự kiểm duyệt, mọi sự kiểm soát nhờ quen thân với một sĩ quan hải quân Pháp đóng ở đó. Ðể làm một thiên phóng sự giật gân ư? Không phải, vì thế giới lúc này chỉ muốn nghe về tình hình Triều Tiên. Ðể được một cơ hội tử trận ư? Tại sao lại muốn hết sống, khi đêm nào cũng có Phượng ngủ bên mình. Nhưng tôi đã biết câu trả lời cho vấn đề này. Từ thuở nhỏ, tôi không bao giờ tin ở sự bất biến, nhưng tôi vẫn cứ hoài vọng có nó. Tôi luôn nơm nớp sợ mất hạnh phúc. Chắc tháng này hay năm sau Phượng sẽ bỏ tôi. Nếu không năm sau thì ba năm nữa. Chỉ có cái chết là cái giá trị tuyệt đối trong cái vũ trụ của tôi. Khi đã mất tính mệnh là không còn cái gì để sợ mất nữa. Tôi thèm muốn được như những người tin ở một đức Chúa trời. Với cái chết cũng mất luôn cái có thể diễn ra hàng ngày là việc mất tình yêu. Sự ám ảnh của một tương lai buồn tẻ và đơn độc cũng tan biến luôn. Tôi không bao giờ có thể là người theo chủ nghĩa hoà bình. Thật thế, giết một người tức là đem lại cho họ một điều tốt lành vô giá. à phải, người ta bao giờ cũng yêu mến kẻ thù của mình. Họ dành cho kẻ thù nỗi đau khổ và sự hư vô.

– Xin tha lỗi vì tôi đã không để cô Phượng với anh – tiếng nói của Pyle vang lên.

– à, tôi không nhảy, nhưng tôi thích nhìn cô ấy nhảy.

Bao giờ chúng tôi cũng nói về Phượng theo kiểu đó, cô ở ngôi thứ ba trong lời nói, y như cô không có mặt ở đó. Có khi như người ta không nhìn thấy cô, y như người ta không nhìn thấy hoà bình vậy.

Những trò vui của tôi bắt đầu: một nữ ca sĩ, một người nhào lộn, một người kể chuyện bông phèng – những điều hắn nói thật tục tĩu – nhưng nhìn Pyle, tôi thấy hắn không hiểu tý gì về thứ nói lóng đó. Phượng mỉm cười thì anh chàng cũng mỉm cười, khi tôi cười to thì y cũng cười to một cách ngượng ngập.

– Tôi không rõ Grand lúc này ở đâu? – tôi nói và Pyle nhìn tôi một cách trách móc.

Sau đó đến các mục chủ yếu của tối biểu diễn: Một tốp con trai mặc giả gái. Tôi đã nhìn thấy nhiều bọn này giữa ban ngày đi lại dọc phố Catina, mặc chiếc quần vá, áo xăng đay cũ, cầm đánh phấn phớt xanh vừa đi vừa lắc lư. Tối hôm đó, trong bộ áo dạ hội, hở ngực đeo đồ trang sức giả, vú giả, nói với giọng kim, họ có vẻ đáng mê ngang với đa số các bà người Âu ở Sài Gòn. Một nhóm sĩ quan không quân trẻ huýt sáo ầm ĩ và họ đáp lại bằng những nụ cười mê hồn. Sự phản ứng mạnh mẽ của Pyle làm tôi bị ngạc nhiên.

– Fowler – hắn nói – đi về thôi. Chúng ta đã xem đủ kiểu rồi, phải không anh? Trò này không hợp với cô ấy.