Menu Đóng

Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Kiều tự vẫn

Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420. Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong có rày !
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi !
2425. Chạm xương chép dạ xiết chi,
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !
Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha !
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân .
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa .
2435. Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
2440. Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài .
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam .
2445. Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì !
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương !
Trước cờ ai dám tranh cường,
2450. Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung.
2455. Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
2460. Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
Tin vào gởi trước trung quân,
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465. Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
2470. Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nàng thời thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
2480. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
2490. Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Ngẫm từ gây việc binh đao,
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
2495. Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
Tin lời thành hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
2510. Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.
Từ công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần,
2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
Quan quân truy sát đuổi dài.
m ầm sát khí ngất trời ai đang.
2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang,
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
Khóc rằng: Trí dũng có thừa,
2530. Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!
Dòng thu như dội cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535. Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Quan quân kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
2540. Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
Rằng: Nàng chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành toán miếu đường,
Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545. Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
Rằng: Từ là đấng anh hùng,
2550. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
Tin tôi nên quá nghe lời,
Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
Ngỡ là phu quý phụ vinh,
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555. Năm năm trời bể ngang tàng,
Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
Khéo khuyên kể lấy làm công,
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít tội nhiều,
2560. Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho tiện thổ một doi,
Gọi là đắp điếm cho người tử sinh.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
2565. Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan .
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu .
Một cung gió thảm mưa sầu,
2570. Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay !
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu .
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu ?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay !
2575. Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ .
Cung cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây !
Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580. Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình !
Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,
Dây loan xin nối cầm lành cho ai .
Thưa rằng: Chút phận lạc loài,
Trong mình nghĩ đã có người thác oan .
2585. Còn chi nữa cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân .
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may !
Hạ công chén đã quá say,
2590. Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra .
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào .
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự này biết tính thế nào được đây ?
2595. Công nha vừa buổi rạng ngày,
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài .
Lệnh quan ai dám cãi lời,
ép tình mới gán cho người thổ quan .
Ông tơ thực nhẽ đa đoan !
2600. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên ?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao .
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi ?
2605. Đành thân cát lấp sóng vùi,
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh !
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
2610. Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay !
Thân sao thân đến thế này ?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi !
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương !
2615. Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi !
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong .
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
2620. Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường.
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây !
Đạm Tiên nàng nhé có hay !
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta .
2625. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau .
Cửa bồng vội mở rèm châu,
Trời cao sông rộng một màu bao la .
Rằng: Từ công hậu đãi ta,
2630. Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời ?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông !
2635. Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang .
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi !
Thương thay cũng một kiếp người,
2640. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi !
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân !
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi !
2645. Đời người đến thế thì thôi,
Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay .
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương !
Giác Duyên từ tiết giã màng,
2650. Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655. Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
2660. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
 không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665. Ma đưa lối quỷ đem đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Hết nạn ấy đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670. Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh.
Oan kia theo mãi với tình,
Một mình mình biết một mình mình hay.
2675. Làm cho sống đọa thác đầy,
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!
Sư rằng: Song chẳng hề chi,
2680. Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685. Hại một người cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
Khi nên trời cũng chiều người,
2690. Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền đường thả một bè lau rước người.
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
2695. Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền đường,
Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
2700. Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quảng mấy công,
Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705. Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710. Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715. Chị sao phận mỏng phúc dày,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân,
2720. Âm công cất một đồng cân đã già!
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725. Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
2730. Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735. Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.


2425. Khắc xương ghi dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.

  1. Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
  2. Quốc sĩ:Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
  3. Cố ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
  4. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc.

Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.

  1. Việt:Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;

Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.

  1. Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.
  2. Bình uy: Uy thế của quân đội. Câu này ý nói: Uy thế của quân Từ Hải từ đó vang dội trong ngoài như sấm dậy.
  3. Huyện thành:Thành trì của một huyện. Câu này ý nói: Quân Từ Hải đánh chiếm được năm huyện phía Nam Trung Quốc.
  4. Giá áo túi cơm:Cái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm ý nói người vô dụng hèn kém.
  5. Cô và quả:Tiếng tự xưng của bọn vua chúa đời xưa. Bá Vương cũng nghĩa như vua chúa. Câu này ý nói: Từ Hải cũng xưng cô xưng quả, làm vương làm bá một phương chứ không kém gì ai.
  6. Tranh cường:Đua tranh về sức mạnh. Câu này ý nói: Trước ngọn cờ của Từ Hải không ai dám chống lại.
  7. Hùng cứ:Lấy sức mạnh mà chiếm giữ.

Hải tần: Đất ven biển.

  1. Kinh luân: Nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.
  2. Đẩy xe: Do chữthôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.
  3. Tiện nghi bát tiễu:Tuỳ tiện mà đánh đẹp.

Đổng nhung: Trông coi, đốc suất việc quân.

  1. Chiêu an: Kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.
  2. Vương thần: Bề tôi của nhà vua.
  3. Thanh vân:Mây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh.
  4. Mệnh phụ: Vợ các quan to đời xưa, được vua ban sắc mệnh phong cho làm phu nhân.
  5. Đắc hiếu: Tròn đạo hiếu với cha mẹ.

Đắc trung: Tròn đạo trung với vua.

  1. Chiếc bách: Do chữbách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.
  2. Bình thành:Do chữ địa bình thiên thành ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.
  3. Vô định:Tên một con sông ở biên thuỳ tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết.
  4. Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.
  5. Thúc giáp: Bó áo giáp lại.

Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.

  1. Thành hạ yêu minh:Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.
  2. Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.
  3. Quyết kế thừa cơ: Quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.
  4. Lễ tiên bình hậu:Phía trước thì đàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công.

Khắc cờ: ấn định kỳ hạn.

Tập công: Đánh úp.

  1. Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng.

Tiên phong: Toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ “chiêu phủ” đi trước.

  1. Đại quan lễ phục: Ăn bận theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục.
  2. Trí dũng: Trí khôn và sức mạnh.
  3. Dòng thu:Đây là chỉ nước mắt.
  4. Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức.
  5. Binh cách:Binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.
  6. Thành toán miếu đường:Mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tốn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã cso mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.
  7. Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.
  8. Phu quí phụ vinh: Chồng làm nên quan sang thì vợ cũng được vinh hiển.
  9. Ngang tàng:Cũng cú nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất.
  10. Tiện thổ:Mướng đất xấu.
  11. Cảo táng:Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: Cũng như di hài.
  12. Hạ công:Mừng công ( Thắng trận).
  13. Thị yến:Hầu hạ bên bàn tiệc.
  14. Hương lửa ba sinh:Do chữ tam sinh hương hoả, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại.
  15. Dây loan:Chỉ việc nối lại nhân duyên vợ chồng.
  16. Tiểu lân:Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua Hậu chủ nước Tề, đời Nam Bắc triều. Sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ cảm hoài trong đó có câu: Dục trí tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền. Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ýcâu thơ ấy.
  17. Gốc phần:Do chữ phần du.
  18. Phương diện quốc gia:vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước.
  19. Công nha:Chỗ làm việc quan, cũng như công môn đườngv.v.
  20. Thổ quan:Cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.
  21. Tơ đào:Cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: “Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?”. Nợ đây tức là việc “ép tình mới gán cho người thổ quan”.
  22. Triều:Nước thuỷ triều. ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.
  23. Thần mộng:Lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao, lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: “Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”.
  24. Tuyệt bút:Bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.
  25. Cửa hồng:Cửa thuyền.

Rèm châu: Rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.

  1. Con nước:Tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.
  2. Người xưa thường dùng hai chữhương ngọcđể chỉ phụ nữ.
  3. Âm cực dương hồi:Khi khí âm đến hết mực thì khí dương lạ trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bĩ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.
  4. Bầu:Quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước.

Níp: Cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa.

Vân du: Danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.

  1. Phúc hoạ đạo trời:Nói người ở đời gặp phúc hay gặp hoạ đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.
  2. Thanh lâu:Gái điếm. Thanh y: Gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.
  3. Hùm sói:Người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Đây muốn nói Kiều phải sống với bọn ác độc.
  4. Nghiệp duyên:Danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.
  5. Tình thân: Do câuphụ tử tình thân. Câu này ý nói: Thuý Kiều đến bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.
  6. Thửa công đức:Nghĩa là cứ xem như công đức ấy.
  7. Túc khiên:Tội lỗi kiếp trước.
  8. Thảo đường:Nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.
  9. Ngư phủ:Người làm nghề chài lưới.
  10. Duềnh ngân:Dòng nước bạc.
  11. Ngư ông: Ông lão đánh cá, tức “ngư phủ” nói trên.
  12. Phách quế hồn mai: Do chữquế phách mai hồn. Hai chữ “quế mai” ở đây dùng cho đẹp lời văn.
  13. Âm công: Công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết.
  14. Thảo lưu:Nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường.