Menu Đóng

Chương 16

Khi Sam, người cuối cùng của Đội Đồng Hành, dẫn Bill đi lên vùng đất khô trên phía bờ xa, thì một tiếng động nhẹ nhàng vẳng đến: một tiếng vụt, theo sau bởi một tiếng rơi, như thể một con cá vừa khuấy động bề mặt nước phẳng lặng. Họ nhanh chóng quay lại và thấy những đợt sóng nhấp nhô đen ngòm tỏa bóng trong ánh sáng nhạt nhòa: những vòng tròn rộng đang tỏa ra từ một điểm xa bên ngoài hồ. Đó là một tiếng động sùng sục, và rồi im lặng. Bóng tối càng dày thêm, và những tia sáng cuối cùng của hoàng hôn bị chìm khuất trong màn mây.
Lúc này Gandalf đang sải bước thật mạnh mẽ, và những người khác đi theo ông càng nhanh càng tốt. Họ đi đến một vùng đất khô ráo nằm giữa cái hồ và những vách đá khác: nó hẹp, thường bề ngang nó không quá mười hai yard, và ngổn nang những hòn đá rơi; nhưng họ thấy một con đường ôm sát vách đá, và họ cố tránh xa khỏi vũng nước đen nếu có thể. Đi dọc về hướng nam khoảng một dặm thì họ đi vào một vùng cây nhựa ruồi. Những gốc và rễ cây chết đang phân hủy trong nước cạn, những gì còn lại nhìn giống như những bụi cây già, hoặc giống như một hàng rào đã từng nằm dọc theo con đường cắt ngang cái thung lũng ngập nước. Nhưng gần bên dưới chỗ vách đá có hai cây cao nhô lên, vẫn còn sống và khỏe mạnh, chúng lớn hơn bất kỳ cây nhựa ruồi nào mà Frodo đã từng thấy hoặc tưởng tượng ra. Những cái rễ vĩ đại của chúng vươn từ tường đổ ra nước. Bên dưới những vách đá mờ ảo chúng nhìn giống như những bụi cây, khi nhìn xa từ trên đỉnh của Bậc Thang; nhưng lúc này thì chúng vươn lên, cứng ngắc, tối tăm và lặng lẽ, đâm sâu vào vùng bóng đêm tối tăm ở dưới chân chúng, đứng sừng sững như những ngọn tháp canh ở cuối đường.
“Nào, cuối cùng chúng ta cũng đã đến đây!” Gandalf nói. “Đây chính là con đường của người Elves từ phía cuối Hollin. Cây nhựa ruồi là dấu hiệu của người ở vùng này, và họ đã trồng nó để đánh dấu nơi tận cùng lãnh thổ của mình; vì những cánh cửa phía Tây được dùng chủ yếu để thông thương với các Lãnh Chúa vùng Moria. Những ngày ấy vui vẻ hơn bây giờ, khi mà thỉnh thoảng vẫn có những tình bạn thân thiết giữa những những con người thuộc các chủng tộc khác nhau, thậm chí là giữa Người Lùn với Elves.”
“Không phải do lỗi của Người Lùn mà tình bạn ấy bị mai một,” Gimli nói.
“Tôi cũng chưa bao giờ nghe rằng đó là lỗi của người Elves,” Legolas nói.
“Ta đã nghe cả hai điều này,” Gandalf nói; “và lúc này thì ta sẽ không đưa ra lời phán xét nào. Nhưng ta xin cả hai anh, Legolas và Gimli, ít nhất cũng là bạn bè và giúp đỡ ta. Ta cần cả hai anh. Những cánh cửa đang bị đóng và giấu kín, và chúng ta tìm ra chúng càng sớm càng tốt. Đêm đã gần kề rồi!”
Ông quay sang những người khác và nói: “Trong khi ta tìm kiếm, thì mỗi người các anh sẽ sẵn sàng để tiến vào Vùng Mỏ chứ? Tại nơi đây ta sợ rằng chúng ta sẽ phải nói lời tạm biệt với con vật gánh hành lí tuyệt vời của chúng ta. Các anh phải để lại khá nhiều vật dụng mà chúng ta đã mang đi để chống lại thời tiết khắc nghiệt: ở bên trong các anh sẽ không cần đến nó, hoặc, ta hi vọng thế, khi chúng ta đi qua nó và đi xuống hướng Nam. Thay vào đó mỗi chúng ta phải chia nhau gánh một phần những gì mà con ngựa lùn đã thồ, đặc biệt là thức ăn và những túi da đựng nước.”
“Nhưng ông không thể để con Bill già tội nghiệp lại ở một nơi hoang vắng thế này, thưa ông Gandalf!” Sam kêu lên, giận dữ và đau buồn. “Tôi không chấp nhận nó, và điều này là dứt khoát. Sau khi mà nó đã đi một đoạn đường dài đến thế!”
“Ta rất tiếc, Sam ạ,” thầy phù thủy nói. “Nhưng khi Cánh Cổng mở ra thì ta không nghĩ là anh sẽ có thể lôi theo con Bill của anh vào trong được, đi vào trong vùng Moria tối tăm thăm thẳm. Anh sẽ phải chọn giữa Bill và chủ anh thôi.”
“Nó sẽ theo ông Frodo vào tận hang rồng, nếu tôi dắt nó theo,” Sam phản đối. “Không có gì nhanh hơn để giết nó khi bỏ nó lại với bọn sói.”
“Ta hi vọng rằng đó là một cách nhanh để giết nó,” Gandalf nói. Ông hạ tay xuống đầu con ngựa lùn, và hạ giọng nói. “Hãy đi với những lời bảo vệ và dẫn dường i,” ông nói. “Mi là một con vật thông minh, và đã được học nhiều thứ ở Rivendell. Hãy tìm đường và những nơi mà mi có thể tìm thấy cỏ, và rồi hãy về ngôi nhà của Elrond, hoặc bất kỳ nơi đâu mà mi muốn đi.
“Thế đấy, Sam! Nó sẽ có nhiều cơ hội để trốn thoát khỏi bọn sói và trở về nhà như chúng ta có.”
Sam đứng lặng bên con ngựa lùn mà chẳng nói nên lời. Bill có vẻ như hiểu rõ những gì đang xảy ra, dụi vào anh, đưa mũi lên tai Sam. Sam òa khóc, và mò mẫm bộ dây đai, tháo xuống tất cả hành lí trên mình ngựa và ném chúng xuống đất. Những người khác sắp xếp lại đồ đạc, gom những gì có thể bỏ lại thành đống, và chia nhau mang những gì còn lại.
Khi mọi thứ đã xong thì họ quay lại nhìn Gandalf. Có vẻ như ông chẳng làm gì cả. Ông đứng giữa hai cái cây, nhìn chằm chằm lên khoảng tường trơ trụi trên vách đá, như thể ông đang định dùng mắt mình khoan một cái lỗ. Gimli lẩn quẩn bên cạnh, dùng rìu gõ thử chỗ này chỗ kia. Legolas đang đứng đối diện với vách đá, như thể đang nghe ngóng.
“Được rồi, bây giờ chúng ta đã ở đây và tất cả đều đã sẵn sàng,” Merry nói; “nhưng những Cánh Cửa đâu? Tôi chẳng thấy dấu hiệu nào của chúng cả.”
“Nhưng cánh cửa của người lùn không phải được tạo ra để nhìn thấy khi chúng đóng lại,” Gimli nói. “Chúng vô hình, và chính chủ nhân của chúng cũng không thể tìm thấy hoặc mở được nó, nếu như bí mật của chúng bị quên lãng.”
“Nhưng Cánh Cửa này không phải được tạo ra để trở thành một bí mật mà chỉ Người Lùn biết,” Gandalf nói, ông thình lình bừng tỉnh và quay lại. “Trừ phi mọi thứ đều đã thay đổi, chứ những đôi mắt vẫn biết cách để để khám phá những dấu hiệu.”
Ông bước đến bên bức tường. Ngay giữa bóng tối của các ngọn cây là một khoảng trống bằng phẳng, và ông dùng tay sờ soạng trên nó, thì thầm vài lời. Rồi ông lùi lại.
“Nhìn nào!” ông nói. “Bây giờ thì các anh có thấy gì không?”
Lúc này Mặt Trăng đã rọi sáng trên bề mặt xám của tảng đá; nhưng họ vẫn không thể thấy được gì suốt một lúc lâu. Rồi dần dần trên bề mặt đá, nơi bàn tay của thầy phù thủy vừa dạo qua, những hàng chữ lờ mờ hiện lên, nhìn giống như những hàng dấu ấn bạc rực sáng trên nền đá. Đầu tiên chúng chẳng khác gì hơn là những đường chỉ tơ mờ nhạt, nhỏ mịn đến nỗi chúng chỉ hiện ra chập chờn tại nơi Mặt Trăng rọi vào, nhưng chúng dần trở nên lớn và rõ hơn, cho đến khi có thể đoán được sự sắp đặt của chúng. Ở trên đỉnh, cao ngang chỗ mà Gandalf có thể với đến, là một vòm cung những hàng chữ thuộc một loại ký tự cổ của người Elves nối tiếp nhau. Bên dưới, qua những dòng chữ trên những nơi mờ và gãy, hiện ra hình của một cái đe và một cái búa bao quanh bởi một cái vương miện với bảy vì sao. Bên dưới nó lại là hai cái cây, mỗi cái mang những vầng trăng khuyết. Hiện rõ hơn cả là một ngôi sao đơn lẻ đang tỏa ra những tia sáng rực ở giữa cánh cửa.
“Đó chính là biểu tượng của Durin!” Gimli kêu lên.
“Và đây chính là Ngọn Cây của người Elves Cao!” Legolas kêu lên.
“Và là Ngôi Sao của Ngôi Nhà của Flanor,” Gandalf nói. “Chúng được làm bằng ithildin chỉ phản chiếu bởi ánh sao và ánh trăng, và sẽ ngủ yên cho đến khi nó được chạm tới bởi một ai nói những lời mà ngày nay miền Trung Giới người ta đã quên lãng. Ta đã nghe đến chúng từ lâu, và ta đã nghĩ nhiều về chúng trước khi ta có thể nhớ lại được chúng trong tâm trí mình.”
“Những dòng chữ đó viết gì?” Frodo hỏi, ông đang cố giải mã những câu khắc trên cổng vòm. “Cháu nghĩ là cháu biết về chữ của người Elves nhưng cháu không thể đọc được những dòng này.”
“Những từ này là ngôn ngữ của người Elves ở miền Tây Trung Giới trong Những Ngày Cổ Xưa,” Gandalf nói. “Nhưng chúng không nói lên được điều gì quan trọng với chúng ta. Chúng chỉ nói là: Những Cánh Cửa của Durin, Lãnh Chúa Moria. Hãy nói, anh bạn, và đi vào. Dòng chữ nhỏ và mờ bên dưới viết rằng: Ta, Narvi, đã tạo ra chúng. Celebrim vùng Hollin đã vẽ những chữ ký này.”
“Thế dòng chữ Hãy nói, anh bạn và đi vào có nghĩa gì?” Merry hỏi.
“Điều này là quá rõ,” Gimli nói. “Nếu như anh là một người bạn, thì hãy nói mật mã và cánh cửa sẽ mở ra, và anh có thể vào.”
“Phải,” Gandalf nói. “những cánh cửa này có thể được điều khiển bằng những lời nói. Một số cánh cổng của người lùn sẽ mở ra vào những thời khắc đặc biệt, hoặc mở cho những người đặc biệt; và một số khác thì bị khoá và cần có chìa khoá khi đã biết được những thời điểm và lời nói cần thiết. Những cánh cửa này không có chìa khoá. Vào thời của Durin họ không có bí mật gì. Chúng thường được mở ở đây và ngưỡng cửa ở kia. Nhưng chúng được đóng lại, thì bất kỳ ai biết được lời mở cửa đều có thể đọc nó và đi vào. Ít nhất là đó những gì được ghi lại, phải không Gimli?”
“Phải,” người lùn nói. “Nhưng những lời ấy không còn được nhớ nữa. Nariv và những công trình của ông và giống nòi của ông ta đã biến mất khỏi trái đất.”
“Nhưng ông biết mật mã mà, Gandalf,” Boromir ngạc nhiên hỏi lại.
“Không!” thầy phù thủy nói.
Họ nhìn nhau bàng hoàng; chỉ có Aragorn, người biết rõ Gandalf, vẫn im lặng và không hề chuyển động.
“Vậy thì đem chúng tôi đến cái nơi đáng nguyền rủa này làm gì?” Boromir kêu lên, liếc nhìn lại vũng nước đen với một cái rùng mình. “Ông nói với chúng tôi rằng ông đã từng đi qua khu Hầm Mỏ. Làm sao mà ông làm được điều đó nếu ông không biết làm cách nào để đi vào?”
“Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên của anh, Boromir ạ,” thầy phù thủy nói, “rằng ta vẫn chưa biết mật mã. Nhưng chúng ta sẽ sớm thấy nó. Và,” ông nói thêm, với ánh lóe lên từ đôi mắt dưới đôi mày rậm, “anh có thể hỏi những công việc của ta để làm gì khi mà chúng đã được chứng tỏ là vô dụng. Còn với những câu hỏi khác của anh: anh nghi ngờ câu chuyện của ta à? Hay là anh chẳng có trí khôn? Ta không đi vào theo lối này. Ta đi từ phía Đông.”
“Nếu anh muốn biết, ta sẽ nói cho anh biết rằng những cánh cửa này mở ra ngoài. Từ bên trong anh có thể đẩy chúng mở ra bằng tay. Từ bên ngoài thì không có gì có thể di chuyển được chúng ngoại trừ những câu thần chú ra lệnh. Không thể đẩy chúng vào trong được.”
“Vậy thì ông sẽ làm gì đây?” Pippin hỏi, không chùn bước trước đôi mày rậm của thầy phù thủy.
“Gõ vào những cánh cửa này bằng cái đầu của ông, Peregrin Took,” Gandalf nói. “Nhưng nếu việc này không làm chúng vỡ ra, thì ta cũng sẽ được cho phép tận hưởng một chút an bình mà không có những câu hỏi ngớ ngẩn. Ta sẽ tìm mật mã mở cổng.”
“Ta đã từng biết mọi câu thần chú bằng tất cả các ngôn ngữ của người Elves, Con Người hoặc bọn Orc được dùng ục đích như thế này. Ta vẫn có thể nhớ chúng mười mươi mà không cần phải tìm lại trong tâm trí. Nhưng ta nghĩ là chỉ cần vài lần thử; và ta sẽ không phải gọi đến Gimli để hỏi về những mật mã bằng thứ ngôn ngữ của người lùn mà họ chẳng hề dạy cho ai. Mật mã mở cửa là tiếng của người Elves, giống như những gì được viết trên cổng vòm, chắc chắn là vậy.”
Ông đứng lên vách đá trở lại, và nhẹ nhàng chạm cây quyền trượng của mình vào ngôi sao bạc ở giữa bên dưới dấu hiệu của cái đe.
Annon edhellen, edro hi ammen!
Fennas nogothrim, lasto beth lammen!
Ông nói bằng giọng ra lệnh. Những hàng chữ bạc mờ đi, nhưng khối đá xám trơ vẫn chẳng hề chuyển động.
Ông lặp lại những từ này nhiều lần bằng những thứ tự khác nhau, hoặc thay đổi chúng. Rồi ông cố thử những thần chú khác, câu này tiếp sau câu kia, lúc thì ông nói nhanh hơn và lớn hơn, lúc thì ông nói nhẹ và chậm. Rồi ông nói nhiều từ đơn lẻ của người Elves. Chẳng có gì xảy ra. Vách đá vẫn vươn cao sừng sững trong đêm, vô vàn những vì sao lấp lánh, gió thổi lạnh căm, và những cánh cửa vẫn đóng im ỉm.
Một lần nữa Gandalf lại bước đến gần bức tường, ông nâng tay lên và nói bằng một giọng ra lệnh với cơn giận ngút cao. Edro, edro! Ông kêu lên, và dùng quyền trượng gõ vào khối đá. Mở ra, mở ra!, ông kêu lên, và lặp lại đúng câu lệnh này với mọi thứ ngôn ngữ đã từng được nói ở miền Tây Trung giới. Rồi ông ném cây quyền trượng xuống đất và lặng lẽ ngồi xuống.
Đúng vào lúc này từ phía xa tiếng gió vẳng lại bên tai họ mang theo tiếng sói tru. Con ngựa lùn Bill run lên vì sợ hãi, và Sam phóng đến bên cạnh nó, dịu dàng thì thầm vào tai nó.
“Đừng để nó chạy đi!” Boromir nói. “Có vẻ như chúng ta sẽ vẫn cần nó nếu như bọn sói không tìm thấy chúng ta. Sao mà tôi ghét cái vũng nước dơ bẩn này quá!” Ông đứng lên, nhặt một hòn đá lớn và ném thật xa vào vũng nước đen. Hòn đá biến mất với một tiếng vỗ nhẹ; nhưng ngay lúc đó có một tiếng tiếng rít và một tiếng sủi bọt vang lên. Những vòng gợn sóng lớn đang tạo ra trên bề mặt nước tỏa ra từ nơi hòn đá vừa rơi xuống, và chúng chậm chạp chuyển động về phía chân vách đá.
“Sao ông lại làm vậy, Boromir?” Frodo nói. “Tôi cũng ghét nơi này vậy, và tôi đang sợ. Tôi không biết là sợ cái gì: không phải sói, không phải bóng tối đằng sau cánh cửa, mà là một cái gì khác. Tôi sợ cái vũng nước này. Đừng khuấy động nó!”
“Ước gì chúng ta có thể thoát khỏi đây!” Merry nói.
“Sao mà ông Gandalf không làm điều gì đó nhanh lên nhỉ?” Pippin nói.
Gandalf không chú ý đến họ. Ông ngồi cúi đầu xuống,không hề tỏ ra tuyệt vọng hay bực dọc. Tiếng sói tru thê lương lại vẳng lên. Tiếng nước róc rách càng lúc càng lớn và gần dần; đã có tiếng nước tung toé lên ở bờ hồ.
Thầy phù thủy thình lình đứng bật lên làm tất cả bọn họ đều giật mình. Ông phá lên cười! “Ta đã biết được nó!” ông kêu lên. “Tất nhiên, tất nhiên! Đơn giản một cách lố bịch, giống như phần lớn câu đố khi mà các anh đã thấy được câu trả lời của nó.”
Ông nhặt cây quyền trượng lên và đứng trước vách đá, rồi nói bằng một giọng thật rõ: Mellon!
Ngôi sao sáng lóe lên một lúc ngắn rồi lại biến đi. Rồi hình dáng một cánh cửa khổng lồ lặng lẽ hiện ra, cho dù trước đó không hề thấy vết nứt hay chỗ nối nào. Nó chậm chạp chia ra từ giữa và hiện ra ngoài từng chút một, cho đến khi cả hai cánh cửa nằm hiện ra trên tường. Qua khoảng trống mở rộng có thể thấy một cầu thang tối đen đang dốc cao lên; nhưng bóng tối đằng sau những bậc thang thấp thì còn hơn cả đêm đen. Đội Đồng Hành sững sờ đứng nhìn.
“Ta đã hoàn toàn sai,” Gandalf nói, “và Gimli cũng vậy. Merry là người duy nhất trong số mọi người đi đúng đường. Mật mã đã mở cửa lúc nào cũng được khắc lên cổng vòm! Nó đã được dịch ra rồi: Hãy nói “Anh bạn” và đi vào. Ta chỉ việc nói từ anh bạn bằng tiếng Elves và những cánh cửa mở ra. Rất đơn giản. Quá đơn giản để một bậc thầy truyện cổ học được trong những ngày đầy ngờ vực ngày xưa. Lúc ấy là những thời khắc hạnh phúc hơn. Bây giờ chúng ta hãy đi nào!”
Ông bước đến và đặt chân lên những bậc thang thấp nhất. Nhưng vào đúng lúc đó có nhiều chuyện xảy ra. Frodo cảm thấy có cái gì đó tóm lấy mắt cá của ông, ông ngã xuống và kêu lên. Con ngựa lùn Bill hí lên kinh hãi, vẫy đuôi và lao vụt đi bên bờ hồ và biến vào bóng tối. Sam nhảy theo nó, nhưng khi nghe tiếng kêu của Frodo thì anh chạy vụt trở lại, vừa khóc vừa chửi rủa. Những người khác chạy vòng qua và thấy nước trong hồ đang sôi lên sùng sục, như thể một bầy rắn đang bơi ngược lên từ góc nam.
Một cái vòi dài ngoằn ngoèo thò ra khỏi mặt nước; nó có màu xanh nhạt, tỏa sáng và ẩm ướt. Phần cuối của nó mò mẫm tóm đúng vào chân Frodo và đang kéo ông trở vào nước. Sam quỳ gối xuống và đang dùng dao chém vào nó.
Cánh tay rời khỏi Frodo, và Sam đẩy ông đi, kêu gào giúp đỡ. Hai mươi cánh tay khác đang thò ra. Vũng nước đen sôi lên, và một mùi hôi thối khủng khiếp bốc lên.
“Chạy vào cổng chính! Leo lên cầu thang! Nhanh!” Gandalf la lên và nhảy ngược trở lại. Ông cố thức tỉnh họ khỏi sự kinh hoàng có vẻ như đã làm tất cả bọn họ chôn chân cả trừ Sam, và đẩy họ đi.
Họ đi vừa kịp lúc. Sam và Frodo chỉ vừa leo lên được vào bước, và Gandalf bắt đầu leo lên, thì những cái vòi quằn quại mò mẫm qua bờ kênh hẹp và lần sờ trên vách đá cùng những cánh cửa. Một cái vòi thò qua ngưỡng cửa, sáng rực lên trong ánh trăng. Gandalf quay lại và ngừng lại. Nếu như ông nghĩ đến mật mã dùng để đóng cánh cửa lại từ bên trong, thì điều này không cần nữa. Có nhiều cánh tay cuộn lại đang nắm giữ cánh cửa từ hai bên, và với một sức mạnh kinh dị, đang rung lắc chúng. Một tiếng vang vụn vỡ, chúng ập lại, và tất cả ánh sáng biến đi. Một tiếng động xé nát và vỡ vụn vang lên mờ ảo qua những tảng đá nặng nề.
Sam, bám chặt lấy tay Frodo, đổ gục xuống bậc thang trong vùng bóng tối dày thẳm. “Bill già tội nghiệp!” anh nói với tiếng nấc nghẹn. “Bill già tội nghiệp! Sói và rắn! Nhưng rắn thôi đã làm quá nhiều với nó! Tôi không còn lựa chọn nào khác, thưa ngài Frodo. Tôi phải đi với ngài!”
Họ nghe thấy tiếng Gandalf đi xuống những bậc thang và phóng cây quyền trượng gõ lên những cánh cửa. Đá rung lên và cầu thang lẩy bẩy, nhưng những cánh cửa vẫn không mở ra. “Được, được lắm!” thầy phù thủy nói. “Lúc này thì lối đi đã bị khoá lại phía sau ta và chỉ còn một con đường để thoát ra – từ phía bên kia của rặng núi. Qua những âm thanh này thì ta sợ rằng sườn núi đã bị tràn ngập, cây cối đã bị nhổ bật gốc và chắn ngang cánh cổng. Ta rất tiếc; vì những cái cây rất đẹp và đã mọc ở đó từ lâu rồi.”
“Tôi cảm thấy có cái gì đó kinh dị đang đến gần ngay từ lúc chân tôi chạm vào nước,” Frodo nói. “Con đó là gì vậy, hay đó là một bọn nhiều con?”
“Ta không biết,” Gandalf trả lời, “nhưng những cánh tay này được điều khiển chỉ với một mục đích. Có cái gì đó đang trườn tới, hoặc đang được lái ra khỏi nước đen dưới rặng núi. Nó còn già và kinh tởm hơn cả bọn Orcs ở những nơi sâu thẳm trên thế giới.” Ông không nói lớn suy nghĩ của mình về con vật gì đang cư ngụ dưới hồ, nó đã tóm lấy Frodo đầu tiên giữa tất cả Đội Đồng Hành.
Boromir lầm bầm điều gì đó rất khẽ, nhưng tiếng vọng của đá đã làm những lời thì thầm khàn khàn này vang lên khiến tất cả đều nghe thấy: “Ở những nơi sâu thẳm của thế giới! Và theo hướng đó thì chúng ta đang đi ngược lại ước muốn của tôi. Lúc này thì ai sẽ dẫn lối chúng ta trong cái vùng tối kinh khủng này?”
“Ta sẽ làm điều đó,” Gandalf nói, “và Gimli sẽ cùng đi với ta. Hãy đi theo cây quyền trượng của ta!”
Khi thầy phù thủy băng lên những bậc thang lớn, ông đưa cây quyền trượng lên, và từ đỉnh của nó một luồng sáng mờ tỏa ra. Cái cầu thang rộng lớn vẫn còn lành lặn và không bị hư hại gì. Họ đếm thấy hai trăm bậc thang, rộng và cạn, và ở trên đỉnh của nó họ thấy một lối đi qua một khung cửa trên nền đất dẫn sâu vào bóng tối.
“Chúng ta hãy ngồi đây và ăn chút gì đó, trên nền đất này, vì chúng ta không thể tìm thấy được một phòng ăn!” Frodo nói. Ông đã bắt đầu giũ khỏi sự kinh khiếp của cái tay tóm chặt khi nãy, và thình lình ông cảm thấy rất đói.
Đề nghị này được tất cả mọi người chào đón; và họ ngồi xuống trên những bậc đá phía trên, mờ ảo trong bóng tối lờ mờ. Sau khi họ đã ăn xong, Gandalf đưa cho họ nhấp mỗi người một ngụm thứ ba thứ rượu của Rivendell.
“Ta e rằng nó sẽ không còn tồn tại lâu nữa,” ông nói; “nhưng ta nghĩ là chúng ta cần đến nó sau chuyện khủng khiếp vừa rồi ở cánh cổng. Và trừ phi là chúng ta có được một may mắn ghê gớm, chúng sẽ cần đến tất cả những gì còn lại trước khi chúng ta thấy được phía bên kia! Cũng phải cẩn thận khi đi trong nước nữa! Có nhiều con suối và giếng nước ở Hầm Mỏ, nhưng không nên chạm vào chúng. Chúng ta có lẽ là sẽ không có cơ hội đổ đầy những túi và và chai của mình cho đến khi chúng ta đi vào vùng Thung Lũng Dimrill.”
“Chúng ta sẽ phải đi bao lâu?” Frodo hỏi.
“Ta không thể nói được,” Gandalf trả lời. “Nó phụ thuộc vào nhiều cơ hội. Nhưng cứ đi thẳng, nếu không có điều rắc rối hay bị lạc đường gì, thì chúng ta sẽ phải đi khoảng ba hoặc bốn ngày, ta nghĩ vậy. Từ Cửa Tây đến Cổng Đông không thể ít hơn bốn mươi dặm theo đường thẳng, và còn đường này có thể rất ngoằn ngoèo.
Sau khi nghỉ ngơi một lúc ngắn họ bắt đầu đi lại. Tất cả đều hăm hở đi càng nhanh càng tốt, và với quyết tâm cũng ngang với sự mệt mỏi của họ, họ cứ thế mà đi suốt nhiều giờ liền. Gaffer vẫn dẫn đầu như trước đây. Ông giơ cây quyền trượng phát sáng ở bên trái mình, ánh sáng của nó chỉ đủ chiếu sáng vùng đất phía trước chân của ông; ở phía phải ông cầm thanh gươm Glamdring của mình. Đằng sau ông là Gimli, mắt ông sáng lên trong vùng tối lờ mờ khi ông quay đầu từ phía này sang phía kia. Frodo đi sau người lùn, và ông đã rút thanh gươm ngắn của mình ra, thanh Chích. Thanh Chích và Glamdaring chẳng tỏa ra ánh sáng nào, và điều này là một điều hay, bởi vì những gì được làm ra từ những lò rèn của người Elves trong Những Ngày Cổ Xưa như những thanh gươm này sẽ tỏa ra những luồng sáng lạnh nếu như có bất kỳ tên Orcs nào ở gần sát bên. Đằng sau Frodo là Sam, và sau anh là Legolas, và những hobbit trẻ, và Boromir. Ở trong vùng tối phía sau, Aragorn bước đi, mờ ảo và lặng lẽ.
Con đường rẽ ngoằn ngoèo ngang dọc vài lần, và lại bắt đầu dẫn xuống. Nó dẫn hẳn xuống một lúc trước khi nó trở lại bằng phẳng. Không khí trở nên nóng và ngột ngạt, nhưng nó không hôi thối, và đôi khi họ lại cảm thấy những luồn không khí lạnh hơn phả vào mặt họ từ những vùng trống mà họ nửa đoán nửa biết được trên tường. Có nhiều khoảng trống như vậy. Trong vùng sáng mờ ảo tỏa ra từ quyền trượng của thầy phù thủy, Frodo thoáng thấy bóng của những bậc thang và những cổng vòm của những lối đi và đường ống khác, dốc lên, hoặc chảy thẳng xuống, hoặc trổ vào những vùng tối tăm mờ mịt ở phía bên kia. Việc này sẽ khiến cho những hi vọng ghi nhớ lại nơi này trở nên hoang mang vô cùng.