Tháng tư, mơ đi tắm suối Mường.
Chẳng biết ăn cái trứng nhạn vào thì có mát long mát dạ được tí nào chẳng, chớ thật tình ở miền Nam yêu quý, sang đến cái tháng tư này trời nóng quá, ăn gì vào miệng cũng không ngon.
Anh cứ thử tưởng tượng một con lộ dài như đường Công Lý chẳng hạn, chạy từ Chợ cũ cho đến Tân Sơn Nhứt, sơ sơ cũng mươi cây số dài, vậy mà chỉ có vài chỗ có ba cái cây cho ta bong mát còn thì toàn là nắng, nắng suốt ngày, nắng như điên, thế mà anh lại lên cơn yêu Sài Gòn muốn đi nhởn nha ngắm cảnh thì khỏi phải ước đoán, lúc về, nếu không thành lợn quay ít ra anh cũng “trúng”, phải cạo gió rồi uống Càn khôn tán, Căn cơ tán vài ba phong là xoàng.
Miền Nam mến thương ơi, thương mến miền Nam thì lúc nào cũng có thữa, nhưng muốn tìm những lý lẽ độc đáo để khen cái nắng chói chang ấy thì quả thực không thể nào khen nổi. Ấy là tại vì nắng khổ đến thế nào cũng vấn cứ chịu được đi, nếu mình không dư tiền để đi nghỉ mát Vũng Tàu, Long Hải; nhưng bực nhất là có hôm đang nóng vỡ đầu như thế thì trời lại giáng một trận mưa đột ngột làm cho nhiều khi không kịp tìm một nơi ẩn trú, cứ phải đi đại ngoài đường như một triết nhân, mặt mũi tèm nhem, quần áo lướt thướt, mà về đến nhà thì sổ mũi nhức đầu, ơn ớn lạnh nơi xương sống. Cái bịnh tê thấp chẳng biết có phải một phần phát sinh vì mưa nắng thất thường, vì khí hậu ở đây nóng ghê náng gớm mà bên trong thì lại ẩm thấp chẳng? Mình vào ở đây thấy tê thấp nhiều quá cũng đâm ra trợn, ăn thức gì cũng phải nghe ngóng xem sao, mặc dầu ai cũng biết miền Nam yêu quý còn món ăn đem lại cho người viễn khách những hương vị tân kỳ độc đáo.
Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về ruộng ăn cá, về đồng ăn cua.
Cua cá nhiều, hình như cũng chẳng lợi lắm cho người tê thấp cho nên người Bắc sành ăn vào đây chỉ mơ ước có một thứ trứng nhạn mà thôi. Nhưng mơ là một chuyện mà được ăn lại là chuyện khác, có phải người nào muốn ăn cũng được ăn đâu. Đó là vì vào tháng tư, ở miền Nam, tại các đảo ven bờ biển trong vịnh Thái Lan có những khu rừng sác trù mật mà các loài chim biển thường về làm tổ và sinh con đẻ cái. Đó là mùa chim nhạn đẻ trứng…
Tháng tư cơm gói ra Hòn
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn Hang Mai.
Đồn rằng ăn cái trứng nhạn này mát ruột mà lạnh hạ đờm mà lại thong tiểu tiện nên nhiều người vào đây ao ước lắm, nhưng vì không thuận tiện trong sự giao thong một mặt, lại không thể lòn Hang Mai mặt khác, nên đành cứ phải sống nhăn ở thủ đô ăn cơm gạo Mỹ hột tròn chin trăm đồng một tạ và uống rượu với xoài xanh hay mận rồi nằm gối đầu tay không nhìn én nhạn bay qua như Cao Bá Nhạ mà lại nhìn sang cái mái tôn nhà hang xóm suốt ngày vặn rađiô nhức óc và dăm thì mười hoạ mới thấy trời, khi nào Mỹ thả hoả châu trong đêm tím.
Không. Nói thế mà thôi, chớ anh nào nghiện trái cây thì ở đây cũng thú vị, anh có thể an xoài xả láng – mà đủ các loại: xoài cát, xoài tượng, xoài ang ca, xoài roi; để các thứ; xoài chin cây, xoài nhuộm, xoài ngâm khá đá – ăn mận kỳ thích thì thôi. Thêm nữa, lơtuma ăn ngon như bở mặc dầu hơi bí và nghẹn cổ nếu ta ăn hơi hấp tấp; vú sữa từ giêng hai đến tháng này vẫn còn đầy rẫy trong chợ, bên lề đường; anh làm bà ly nhậu với các thứ đó và nhìn ra trời nắng chói chang, lấy tay bóp lấy đầu nhức quá và ngâm một bài “Bạch Tuyết thi”, ấy thế mà cũng có lúc tưởng mình là một thứ tiên ở hạ giới rồi.
Ấy là nói những lúc anh cao hứng vì có rượu nó “đưa” đi, mình cảm thấy hung hồn phấn khởi. Về nhà, lăn ra giường ngủ một giấc thật dài, đến khi tỉnh dậy thì thấy trăng chiếu vào giường. Anh nhớ lại bài thơ cũ:
Thấy trăng chiếu đầu giường,
Tưởng mặt đất mờ sương,
Ngửng đầu nhìn trăng sang,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Anh nhớ cố hương không phải là không có cớ. Vào cữ này, ở Bắc Việt, trời cũng bắt đầu nóng, nhưng không nóng như thế này. Cái nóng ở Bắc cũng làm cho rôm sảy nó đốt người ta một cách khó chịu, nhưng đương đi ngoài nắng mà vào chỗ râm thì da thịt ta cảm thấy bình thường ngay, chớ không điên cuồng, rồ dại lên. Anh muốn tắm, và tắm thì thấy mát da mát thịt liền. Ở đây, có khác: anh đương nóng, nghĩ bụng về đến nhà phải tắm liền, nhưng vừa cởi quần áo anh thấy sởn gai ốc, và có khi suy đi nghĩ lại một chút, có người ngại mà thôi không tắm nữa, đợi đến hôm sau cũng được.
Nói về mấy cái thú ở đời, có nhà thi sĩ đã cho cái tắm là một cái thú ngang với cái thú đi chơi những vùng đất đẹp mùa xuân, cái thú uống rượu hoàng hoa mùa thu và cái thú ngâm thơ Bạch Tuyết mùa đông. Người tỉnh rượu lúc canh tà, nhìn trăng rồi cúi đầu nhớ cố hương, lúc ấy them cái thú tắm suối của một ngày xa xôi ở xứ Mường vùng Việt Bắc, them không biết thế nào mà nói.
Đó là những ngày tay chống gậy, vai mang ba lô, anh lang thang trên các nẻo đường đất nước để sống cái đời lý tưởng: vừa hôm qua mới ở Đọi Đệp ngủ trên mặt đất lạnh, ăn tô phở vịt thì chiều hôm sau đã ở trên đỉnh núi vùng Hoàng Su Phò với một gia đình Mèo; sớm ngày vừa thấy ở trong một thung lũng Ngũ Châu thì chiều tối đã ngồi hút thuốc vặt ở Thường Sơn, Cẩm Thuỷ.
Làm sao mà quên cho được những ngày sống từ Hoà Bình đến Ngũ Châu, Lang Chính, Quảng Hoả, Bái Thượng, Ngọc Lạc…Vào cái khoảng tháng từ này đây, trời bắt đầu nóng, ngày nào mình cũng đi tắm suối ở xứ Mường và cho đến nay vẫn còn ghi ở trong long biết bao nhiêu kỷ niệm xanh một màu núi tím, nước xanh. Cứ vào giờ ngọ, trai gái dắt nhau đi tắm, máng nước bắc từ trên đỉnh núi xuống. Con gái Mường, con trai Kinh vẫy vùng trong những vũng nước ở chân núi, trông xa y như thể là thần tiên cổ Hy Lạp tả trong tập “Tiếng hái nàng Bilitis” của Pierre Louys: nước thì xanh, nùi thì tím, hoa trên sường núi đỏ màu cánh sen mà các cô nàng thoát y lại trăng như ngó sen, tọc rủ xuống lưng, đen như mực tàu…Người con trai Kinh lạc loài vào giữa các tiên nữ ấy, thoạt đầu thấy ngượng ngùng, nhưng sau quen đi cảm thấy ghiền tắm suối và không ngại đùa giỡn và té nước vào các cô nàng vây lấy anh ta như trong một hội hoa đăng trên thượng giới.
Ông thi sĩ nào đó từng đề cao cái thú tắm Lục Hà Trì mùa hạ không biết có được hưởng thụ cái sướng tê người của anh chàng văn nghệ Bắc Việt không, chứ tắm như thế đó ai mà không nghiện.
Muốn cách gì, cứ đến trưa là phải lo sửa soạn đi tắm rồi, không thế thì không chịu được: Tắm như thế không phải là tắm cho cái than thể tục tằn này mà là tắm luôn cho cả đôi mắt, tắm nốt cả cái tâm hồn phiền toái của mình vì vừa tắm, vừa ba lơn, vừa trò chuyện, mình mới thấy cô gái Mường đáng yêu biết chừng nào, chân thực biết chừng nào.
Bất cứ cái gì cũng làm cho cô sung sướng và cười lăn cười lộn: một miếng xà phòng, vật thử có là bao, nhưng đem cắt từng miếng nhỏ bằng ngón tay biếu mỗi cô một miếng thì đã là cả một trời hạnh phúc.
Cố nào cũng muốn tắm cho anh và cô nào cũng có một đôi ba điều để chỉ bảo cho anh biết: chỉ có người Mường tắm thế này thôi, chớ người Mán không có tắm nhiều, còn người Thái ở trên đỉnh núi cao từ thuở bé đến già không có nghĩa gì, mà cả cái phép tắm bằng sữa, tắm bang đầu thơm của các ông hoàng bà chứa hiện nay không nước mẹ gì so với các cô nàng cao cấp người Mường ngày trước: đi tắm, các cô có chừng mười, mười lăm nữ tì đi theo, kẻ mang quần áo, người mang gương lược. Cái suối tắm được vây kín lại. Tắm xong thị nữ đưa cô nàng vào một nhà mát dựng lên gần đó, đặt lên một cái ghế cao bằng trúc mà chỗ ngồi có đục sẵn những lô thong hơi. Trong khi kẻ chải đàu, người xoa nắn, một vài thị nữ khác đã sửa soạn sẵn một lư hương cổ đặt ở dưới ghế; trong lư hương, có đốt trầm, rễ nhang bài và nhiều thứ hoa thơm khác phơi khô, tất cả cháy riu riu, âm ỉ, đủ cho một ngọn khói nhẹ nhàng bốc lên, lọt qua ghế trúc để thấm nhuần vào da thịt, vào long, vào tóc của cô nàng.
…Ngày nào tắm, cũng cứ phải đủ nghi thức ấy. Lần lần, toàn thể da thịt, long tóc của cô nàng thành ra một thứ trầm hương thự thụ đến nỗi không cần phải “thực thi”, chỉ nghĩ thôi, mình cũng đã thấy người đẹp trầm xông xạ ướp đó mát rời rợi đến chừng nào và bất cứ ngửi vào đâu cũng thơm biết ngần nào…
Nghĩ đến thế, không tài nào ngủ được, mà lại càng thấy người mình dã nóng, long ruột mình lại càng nóng them lên. Bao nhiêu chuyện xa xưa vớ vẩn ở đâu kéo lại, giăng tơ trong óc mình như mạng nhện.
Phải rồi, vào mùa này đây, hoa gạo bắt đầu nở đỏ chói ở ven hồ Hoàn Kiếm, rơi xuống nước xanh, rụng xuống cỏ xanh, ve sầu lột cánh đã kêu rền rền vào buổi trưa; và cứ chiều chiều dân Hà Nội kéo nhau đu dạo quanh hồ, trải chiếu lên cỏ hay dắt nhau đứng giữa cầu Thê Húc nhìn ra những phố Pônbe, Tràng Tiền hay Hàng Đào, Ngõ Hồ, Cầu Gỗ lập loè nghìn vạn con mắt điện màu sang chói.
Tháng tư đầu mùa hạ.
Tiết trời thật oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả
Nỗi ấy tỏ cùng ai.
Tình này buồn cả dạ!
Mấy câu thơ ấy, học thuộc lòng khi còn nhỏ bé ở một ngôi trường trăng giữa phố Hàng Vôi – Không biết có phải của cụ Bảng Mộng không nhỉ, chẳng hiểu tại sao đêm nay lại đến với tôi? Mà tại sao có lúc tôi quên phứt mất rồi, mà đêm nay tự nhiên lại nhớ rành mạch khong quên một chữ?
Nhớ đến như thế, tức là nhớ lại cả một thiếu thời lúc còn mặc cái áo maga đi học, vừa đi vừa tung chiếc giày do Đức Mậu lên trời vì đi giày nóng chân quá, giẫm đất nó thảnh thơi, mát mẻ hơn. Ồ, “tiết trời thật oi ả” nhưng tại sao chỉ vì thấy “tiếng dế kêu thiết tha” và “đàn muỗi bay tơi tả” mà cụ Bảng “buồn cả dạ” và không biết “tỏ nỗi ấy cùng ai”?
Đến bây giờ nằm nghĩ lại một cách thong mình, thấu đáo, tôi thấy không vô lý gì hơn, vì nhớ đến “tháng tư đầu mùa hạ”, tôi không thấy buồn một chút nào.
Tháng tư của miền Bắc ngày xưa, tháng tư yêu dấu có nóng, có oi, có dế kêu, có muỗi đốt nhưng tất cả những cái đó có thấm vào đâu với những buổi bình minh nạm vàng, mở mắt ra nhìn lên cao thì thấy mây bay thong thả như trời khảm bằng xà cừ, gió hây hây mát, mở cửa đi ra đường thì cảm thấy cả trời đất trong như là pha lê mà cái than mình nhẹ tênh tênh như là có cánh.
Anh có thể đi dạo như thế chừng nửa tiếng đồng hồ rồi mới về tắm rửa và làm công chuyện. Đời ngọt ngào trầm lặng và thong thả. Chứng chín mười giờ, nắng hoe lên, trời bắt đầu nong nóng, nhưng đời sống trầm lặng không làm cho anh đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Vừa làm việc, anh vẫn có thì giờ pha một ấm nước trà tàu để nhắp giọng cho đỡ khát nước cả ngày. Anh có thì giờ trò chuyện tâm tình với các bạn quen và nếu anh mệt, tôi mời anh làm như tôi khi còn nhỏ, bắc một cái chõng tre, tìm một chỗ mát nhất trong nhà, ngửa mặt nhìn lên trời xem mấy bay, ăn củ khoai lang vàng đầy nhựa rồi thiu thiu nhủ lúc nào không biết…
Êm ái thay những giấc ngủ sang tháng tư có gió mát đem lại cho ta những giấc mộng thiên thần. Cứ nghĩ rằng người ta ở đời chịu bao nhiêu khổ luỵ, lo bao nhiêu thứ “bà rằn”, trải bao nhiêu nỗi buồn thương vô nghiac, rồi rút cục lại làm nên thiên tứ đỉnh chung, giàu thiên ức vạn tải, buông xuôi hai tay xuống cũng là hết, hết cả, không hơn gì một anh nghèo rớt mùng tơi không có tấc đất cắm dùi, không có cả vợ cả con để chia lo sẻ buồn…thì mình lại càng thấy hưởng được phút nào nhàn nhã, sống được phút nào thong thả với nội tâm mình, tức là được lãi…
Cái người đàn ông Bắc Việt lắm khi lạc hậu đến như thế đấy. Mà không những lạc hậu, lắm khi lại điên khùng: nằm đâu mà mơ ước tận đâu, ở thung lũng thì mơ trèo lên nùi ngắt một bong hoa mà đương ở biển thì lại mong lên rừng xanh, bẻ đôi cành, hái một quả sim chin vừa ăn vừa nghe tiếng chim kêu vượn hót.
Tôi cũng thế: nằm ở đây, tôi nhớ tháng tư ở Bắc Việt xưa cũ không biết ngần nào và trong những giấc mộng thiên thần, đố ai tưởng tượng được long tôi bang hoàng đến chừng nào khi thấy mình còn là đứa trẻ lên năm lên sáu, đi ra ven hồ, tìm đến các bãi cỏ, dưới các gốc cây để đái vào những cái lỗ con con bắt dế, vì mùa này là mùa dế sắp chui ra, leo lên cây để lột xác thành những con ve sầu. Có khi đi như thế một mình, có khi đi với vài chúng bạn. Cả mấy đứa mang theo một cái ống bơ, nếu đái vào lỗ mà chưa đủ cho dế phải ngột mà bò lên thì chúng tôi lấy ống bơ ra nằm xuống bãi cỏ ở vệ hồ, thò tay xuống múc nước đổ vào lỗ dế. Chừng mười hai giờ, trời bắt đầu nắng to. Mệt quá, tìm một cái bong mát dưới một cây cao nào nằm khểnh, nhìn ra những bãi cỏ chung quanh xem những cái “búp đa” màu vàng ố rơi xuống cỏ rồi nhặt lấy thi nhau thổi, hoặc tìm những quả đa rụng, lấy tay khía vỏ xanh ra đến cái thịt đỏ lấy con dao nhỏ khắc cái mắt, cái mũi thành những cái mặt nạ Quan Vân Trường, Lữ Bố hay Lưu Bị…
Không một ngày nào, tôi không bị mẹ đánh và giam như tên tử tù ở trong nhà. Những ngày như thế, tôi thường hay mắc võng vào hai cây nhãn ở sau vường nằm ngủ, mơ những cuộc giang hồ vặt ở con đường Hàng Vôi sau nhà Máy Đèn chi chit những cây nhột để bắn sáo sậu và chim khuyên; mơ những buổi lãng du trên cầu Bồ Đề sang bên Gia Lâm, Gia Quất; và mơ những buổi sang đi tha thẩn lên Cột Cờ, gần trại lính, cầm một cái đinh chọc vào cây đa lấy nhựa để sang ngồi ở đài “Chiến sỹ trận vong” vê lại thành quả bong. Cứ mơ như thế rồi thiu thiu ngủ lúc nào không biết để đến khi thức dậy thì nghe thấy tiếng ve sầu kêu rền rền ở chung quanh nhà.
Chẳng biết ăn cái trứng nhạn vào thì có mát long mát dạ được tí nào chẳng, chớ thật tình ở miền Nam yêu quý, sang đến cái tháng tư này trời nóng quá, ăn gì vào miệng cũng không ngon.
Anh cứ thử tưởng tượng một con lộ dài như đường Công Lý chẳng hạn, chạy từ Chợ cũ cho đến Tân Sơn Nhứt, sơ sơ cũng mươi cây số dài, vậy mà chỉ có vài chỗ có ba cái cây cho ta bong mát còn thì toàn là nắng, nắng suốt ngày, nắng như điên, thế mà anh lại lên cơn yêu Sài Gòn muốn đi nhởn nha ngắm cảnh thì khỏi phải ước đoán, lúc về, nếu không thành lợn quay ít ra anh cũng “trúng”, phải cạo gió rồi uống Càn khôn tán, Căn cơ tán vài ba phong là xoàng.
Miền Nam mến thương ơi, thương mến miền Nam thì lúc nào cũng có thữa, nhưng muốn tìm những lý lẽ độc đáo để khen cái nắng chói chang ấy thì quả thực không thể nào khen nổi. Ấy là tại vì nắng khổ đến thế nào cũng vấn cứ chịu được đi, nếu mình không dư tiền để đi nghỉ mát Vũng Tàu, Long Hải; nhưng bực nhất là có hôm đang nóng vỡ đầu như thế thì trời lại giáng một trận mưa đột ngột làm cho nhiều khi không kịp tìm một nơi ẩn trú, cứ phải đi đại ngoài đường như một triết nhân, mặt mũi tèm nhem, quần áo lướt thướt, mà về đến nhà thì sổ mũi nhức đầu, ơn ớn lạnh nơi xương sống. Cái bịnh tê thấp chẳng biết có phải một phần phát sinh vì mưa nắng thất thường, vì khí hậu ở đây nóng ghê náng gớm mà bên trong thì lại ẩm thấp chẳng? Mình vào ở đây thấy tê thấp nhiều quá cũng đâm ra trợn, ăn thức gì cũng phải nghe ngóng xem sao, mặc dầu ai cũng biết miền Nam yêu quý còn món ăn đem lại cho người viễn khách những hương vị tân kỳ độc đáo.
Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về ruộng ăn cá, về đồng ăn cua.
Cua cá nhiều, hình như cũng chẳng lợi lắm cho người tê thấp cho nên người Bắc sành ăn vào đây chỉ mơ ước có một thứ trứng nhạn mà thôi. Nhưng mơ là một chuyện mà được ăn lại là chuyện khác, có phải người nào muốn ăn cũng được ăn đâu. Đó là vì vào tháng tư, ở miền Nam, tại các đảo ven bờ biển trong vịnh Thái Lan có những khu rừng sác trù mật mà các loài chim biển thường về làm tổ và sinh con đẻ cái. Đó là mùa chim nhạn đẻ trứng…
Tháng tư cơm gói ra Hòn
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn Hang Mai.
Đồn rằng ăn cái trứng nhạn này mát ruột mà lạnh hạ đờm mà lại thong tiểu tiện nên nhiều người vào đây ao ước lắm, nhưng vì không thuận tiện trong sự giao thong một mặt, lại không thể lòn Hang Mai mặt khác, nên đành cứ phải sống nhăn ở thủ đô ăn cơm gạo Mỹ hột tròn chin trăm đồng một tạ và uống rượu với xoài xanh hay mận rồi nằm gối đầu tay không nhìn én nhạn bay qua như Cao Bá Nhạ mà lại nhìn sang cái mái tôn nhà hang xóm suốt ngày vặn rađiô nhức óc và dăm thì mười hoạ mới thấy trời, khi nào Mỹ thả hoả châu trong đêm tím.
Không. Nói thế mà thôi, chớ anh nào nghiện trái cây thì ở đây cũng thú vị, anh có thể an xoài xả láng – mà đủ các loại: xoài cát, xoài tượng, xoài ang ca, xoài roi; để các thứ; xoài chin cây, xoài nhuộm, xoài ngâm khá đá – ăn mận kỳ thích thì thôi. Thêm nữa, lơtuma ăn ngon như bở mặc dầu hơi bí và nghẹn cổ nếu ta ăn hơi hấp tấp; vú sữa từ giêng hai đến tháng này vẫn còn đầy rẫy trong chợ, bên lề đường; anh làm bà ly nhậu với các thứ đó và nhìn ra trời nắng chói chang, lấy tay bóp lấy đầu nhức quá và ngâm một bài “Bạch Tuyết thi”, ấy thế mà cũng có lúc tưởng mình là một thứ tiên ở hạ giới rồi.
Ấy là nói những lúc anh cao hứng vì có rượu nó “đưa” đi, mình cảm thấy hung hồn phấn khởi. Về nhà, lăn ra giường ngủ một giấc thật dài, đến khi tỉnh dậy thì thấy trăng chiếu vào giường. Anh nhớ lại bài thơ cũ:
Thấy trăng chiếu đầu giường,
Tưởng mặt đất mờ sương,
Ngửng đầu nhìn trăng sang,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Anh nhớ cố hương không phải là không có cớ. Vào cữ này, ở Bắc Việt, trời cũng bắt đầu nóng, nhưng không nóng như thế này. Cái nóng ở Bắc cũng làm cho rôm sảy nó đốt người ta một cách khó chịu, nhưng đương đi ngoài nắng mà vào chỗ râm thì da thịt ta cảm thấy bình thường ngay, chớ không điên cuồng, rồ dại lên. Anh muốn tắm, và tắm thì thấy mát da mát thịt liền. Ở đây, có khác: anh đương nóng, nghĩ bụng về đến nhà phải tắm liền, nhưng vừa cởi quần áo anh thấy sởn gai ốc, và có khi suy đi nghĩ lại một chút, có người ngại mà thôi không tắm nữa, đợi đến hôm sau cũng được.
Nói về mấy cái thú ở đời, có nhà thi sĩ đã cho cái tắm là một cái thú ngang với cái thú đi chơi những vùng đất đẹp mùa xuân, cái thú uống rượu hoàng hoa mùa thu và cái thú ngâm thơ Bạch Tuyết mùa đông. Người tỉnh rượu lúc canh tà, nhìn trăng rồi cúi đầu nhớ cố hương, lúc ấy them cái thú tắm suối của một ngày xa xôi ở xứ Mường vùng Việt Bắc, them không biết thế nào mà nói.
Đó là những ngày tay chống gậy, vai mang ba lô, anh lang thang trên các nẻo đường đất nước để sống cái đời lý tưởng: vừa hôm qua mới ở Đọi Đệp ngủ trên mặt đất lạnh, ăn tô phở vịt thì chiều hôm sau đã ở trên đỉnh núi vùng Hoàng Su Phò với một gia đình Mèo; sớm ngày vừa thấy ở trong một thung lũng Ngũ Châu thì chiều tối đã ngồi hút thuốc vặt ở Thường Sơn, Cẩm Thuỷ.
Làm sao mà quên cho được những ngày sống từ Hoà Bình đến Ngũ Châu, Lang Chính, Quảng Hoả, Bái Thượng, Ngọc Lạc…Vào cái khoảng tháng từ này đây, trời bắt đầu nóng, ngày nào mình cũng đi tắm suối ở xứ Mường và cho đến nay vẫn còn ghi ở trong long biết bao nhiêu kỷ niệm xanh một màu núi tím, nước xanh. Cứ vào giờ ngọ, trai gái dắt nhau đi tắm, máng nước bắc từ trên đỉnh núi xuống. Con gái Mường, con trai Kinh vẫy vùng trong những vũng nước ở chân núi, trông xa y như thể là thần tiên cổ Hy Lạp tả trong tập “Tiếng hái nàng Bilitis” của Pierre Louys: nước thì xanh, nùi thì tím, hoa trên sường núi đỏ màu cánh sen mà các cô nàng thoát y lại trăng như ngó sen, tọc rủ xuống lưng, đen như mực tàu…Người con trai Kinh lạc loài vào giữa các tiên nữ ấy, thoạt đầu thấy ngượng ngùng, nhưng sau quen đi cảm thấy ghiền tắm suối và không ngại đùa giỡn và té nước vào các cô nàng vây lấy anh ta như trong một hội hoa đăng trên thượng giới.
Ông thi sĩ nào đó từng đề cao cái thú tắm Lục Hà Trì mùa hạ không biết có được hưởng thụ cái sướng tê người của anh chàng văn nghệ Bắc Việt không, chứ tắm như thế đó ai mà không nghiện.
Muốn cách gì, cứ đến trưa là phải lo sửa soạn đi tắm rồi, không thế thì không chịu được: Tắm như thế không phải là tắm cho cái than thể tục tằn này mà là tắm luôn cho cả đôi mắt, tắm nốt cả cái tâm hồn phiền toái của mình vì vừa tắm, vừa ba lơn, vừa trò chuyện, mình mới thấy cô gái Mường đáng yêu biết chừng nào, chân thực biết chừng nào.
Bất cứ cái gì cũng làm cho cô sung sướng và cười lăn cười lộn: một miếng xà phòng, vật thử có là bao, nhưng đem cắt từng miếng nhỏ bằng ngón tay biếu mỗi cô một miếng thì đã là cả một trời hạnh phúc.
Cố nào cũng muốn tắm cho anh và cô nào cũng có một đôi ba điều để chỉ bảo cho anh biết: chỉ có người Mường tắm thế này thôi, chớ người Mán không có tắm nhiều, còn người Thái ở trên đỉnh núi cao từ thuở bé đến già không có nghĩa gì, mà cả cái phép tắm bằng sữa, tắm bang đầu thơm của các ông hoàng bà chứa hiện nay không nước mẹ gì so với các cô nàng cao cấp người Mường ngày trước: đi tắm, các cô có chừng mười, mười lăm nữ tì đi theo, kẻ mang quần áo, người mang gương lược. Cái suối tắm được vây kín lại. Tắm xong thị nữ đưa cô nàng vào một nhà mát dựng lên gần đó, đặt lên một cái ghế cao bằng trúc mà chỗ ngồi có đục sẵn những lô thong hơi. Trong khi kẻ chải đàu, người xoa nắn, một vài thị nữ khác đã sửa soạn sẵn một lư hương cổ đặt ở dưới ghế; trong lư hương, có đốt trầm, rễ nhang bài và nhiều thứ hoa thơm khác phơi khô, tất cả cháy riu riu, âm ỉ, đủ cho một ngọn khói nhẹ nhàng bốc lên, lọt qua ghế trúc để thấm nhuần vào da thịt, vào long, vào tóc của cô nàng.
…Ngày nào tắm, cũng cứ phải đủ nghi thức ấy. Lần lần, toàn thể da thịt, long tóc của cô nàng thành ra một thứ trầm hương thự thụ đến nỗi không cần phải “thực thi”, chỉ nghĩ thôi, mình cũng đã thấy người đẹp trầm xông xạ ướp đó mát rời rợi đến chừng nào và bất cứ ngửi vào đâu cũng thơm biết ngần nào…
Nghĩ đến thế, không tài nào ngủ được, mà lại càng thấy người mình dã nóng, long ruột mình lại càng nóng them lên. Bao nhiêu chuyện xa xưa vớ vẩn ở đâu kéo lại, giăng tơ trong óc mình như mạng nhện.
Phải rồi, vào mùa này đây, hoa gạo bắt đầu nở đỏ chói ở ven hồ Hoàn Kiếm, rơi xuống nước xanh, rụng xuống cỏ xanh, ve sầu lột cánh đã kêu rền rền vào buổi trưa; và cứ chiều chiều dân Hà Nội kéo nhau đu dạo quanh hồ, trải chiếu lên cỏ hay dắt nhau đứng giữa cầu Thê Húc nhìn ra những phố Pônbe, Tràng Tiền hay Hàng Đào, Ngõ Hồ, Cầu Gỗ lập loè nghìn vạn con mắt điện màu sang chói.
Tháng tư đầu mùa hạ.
Tiết trời thật oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay tơi tả
Nỗi ấy tỏ cùng ai.
Tình này buồn cả dạ!
Mấy câu thơ ấy, học thuộc lòng khi còn nhỏ bé ở một ngôi trường trăng giữa phố Hàng Vôi – Không biết có phải của cụ Bảng Mộng không nhỉ, chẳng hiểu tại sao đêm nay lại đến với tôi? Mà tại sao có lúc tôi quên phứt mất rồi, mà đêm nay tự nhiên lại nhớ rành mạch khong quên một chữ?
Nhớ đến như thế, tức là nhớ lại cả một thiếu thời lúc còn mặc cái áo maga đi học, vừa đi vừa tung chiếc giày do Đức Mậu lên trời vì đi giày nóng chân quá, giẫm đất nó thảnh thơi, mát mẻ hơn. Ồ, “tiết trời thật oi ả” nhưng tại sao chỉ vì thấy “tiếng dế kêu thiết tha” và “đàn muỗi bay tơi tả” mà cụ Bảng “buồn cả dạ” và không biết “tỏ nỗi ấy cùng ai”?
Đến bây giờ nằm nghĩ lại một cách thong mình, thấu đáo, tôi thấy không vô lý gì hơn, vì nhớ đến “tháng tư đầu mùa hạ”, tôi không thấy buồn một chút nào.
Tháng tư của miền Bắc ngày xưa, tháng tư yêu dấu có nóng, có oi, có dế kêu, có muỗi đốt nhưng tất cả những cái đó có thấm vào đâu với những buổi bình minh nạm vàng, mở mắt ra nhìn lên cao thì thấy mây bay thong thả như trời khảm bằng xà cừ, gió hây hây mát, mở cửa đi ra đường thì cảm thấy cả trời đất trong như là pha lê mà cái than mình nhẹ tênh tênh như là có cánh.
Anh có thể đi dạo như thế chừng nửa tiếng đồng hồ rồi mới về tắm rửa và làm công chuyện. Đời ngọt ngào trầm lặng và thong thả. Chứng chín mười giờ, nắng hoe lên, trời bắt đầu nong nóng, nhưng đời sống trầm lặng không làm cho anh đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Vừa làm việc, anh vẫn có thì giờ pha một ấm nước trà tàu để nhắp giọng cho đỡ khát nước cả ngày. Anh có thì giờ trò chuyện tâm tình với các bạn quen và nếu anh mệt, tôi mời anh làm như tôi khi còn nhỏ, bắc một cái chõng tre, tìm một chỗ mát nhất trong nhà, ngửa mặt nhìn lên trời xem mấy bay, ăn củ khoai lang vàng đầy nhựa rồi thiu thiu nhủ lúc nào không biết…
Êm ái thay những giấc ngủ sang tháng tư có gió mát đem lại cho ta những giấc mộng thiên thần. Cứ nghĩ rằng người ta ở đời chịu bao nhiêu khổ luỵ, lo bao nhiêu thứ “bà rằn”, trải bao nhiêu nỗi buồn thương vô nghiac, rồi rút cục lại làm nên thiên tứ đỉnh chung, giàu thiên ức vạn tải, buông xuôi hai tay xuống cũng là hết, hết cả, không hơn gì một anh nghèo rớt mùng tơi không có tấc đất cắm dùi, không có cả vợ cả con để chia lo sẻ buồn…thì mình lại càng thấy hưởng được phút nào nhàn nhã, sống được phút nào thong thả với nội tâm mình, tức là được lãi…
Cái người đàn ông Bắc Việt lắm khi lạc hậu đến như thế đấy. Mà không những lạc hậu, lắm khi lại điên khùng: nằm đâu mà mơ ước tận đâu, ở thung lũng thì mơ trèo lên nùi ngắt một bong hoa mà đương ở biển thì lại mong lên rừng xanh, bẻ đôi cành, hái một quả sim chin vừa ăn vừa nghe tiếng chim kêu vượn hót.
Tôi cũng thế: nằm ở đây, tôi nhớ tháng tư ở Bắc Việt xưa cũ không biết ngần nào và trong những giấc mộng thiên thần, đố ai tưởng tượng được long tôi bang hoàng đến chừng nào khi thấy mình còn là đứa trẻ lên năm lên sáu, đi ra ven hồ, tìm đến các bãi cỏ, dưới các gốc cây để đái vào những cái lỗ con con bắt dế, vì mùa này là mùa dế sắp chui ra, leo lên cây để lột xác thành những con ve sầu. Có khi đi như thế một mình, có khi đi với vài chúng bạn. Cả mấy đứa mang theo một cái ống bơ, nếu đái vào lỗ mà chưa đủ cho dế phải ngột mà bò lên thì chúng tôi lấy ống bơ ra nằm xuống bãi cỏ ở vệ hồ, thò tay xuống múc nước đổ vào lỗ dế. Chừng mười hai giờ, trời bắt đầu nắng to. Mệt quá, tìm một cái bong mát dưới một cây cao nào nằm khểnh, nhìn ra những bãi cỏ chung quanh xem những cái “búp đa” màu vàng ố rơi xuống cỏ rồi nhặt lấy thi nhau thổi, hoặc tìm những quả đa rụng, lấy tay khía vỏ xanh ra đến cái thịt đỏ lấy con dao nhỏ khắc cái mắt, cái mũi thành những cái mặt nạ Quan Vân Trường, Lữ Bố hay Lưu Bị…
Không một ngày nào, tôi không bị mẹ đánh và giam như tên tử tù ở trong nhà. Những ngày như thế, tôi thường hay mắc võng vào hai cây nhãn ở sau vường nằm ngủ, mơ những cuộc giang hồ vặt ở con đường Hàng Vôi sau nhà Máy Đèn chi chit những cây nhột để bắn sáo sậu và chim khuyên; mơ những buổi lãng du trên cầu Bồ Đề sang bên Gia Lâm, Gia Quất; và mơ những buổi sang đi tha thẩn lên Cột Cờ, gần trại lính, cầm một cái đinh chọc vào cây đa lấy nhựa để sang ngồi ở đài “Chiến sỹ trận vong” vê lại thành quả bong. Cứ mơ như thế rồi thiu thiu ngủ lúc nào không biết để đến khi thức dậy thì nghe thấy tiếng ve sầu kêu rền rền ở chung quanh nhà.