K h â m Đ ị n h V i ệ t S ử T h ô n g G i á m C ư ơ n g M ụ c
Chính Biên
Quyển thứ I
Từ Mậu Thìn (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 đến hết Đinh Mùi (1007), Lê Long Đĩnh năm Ứng Thiên thứ 14, gồm 40 năm (968-1007).
Mậu Thìn (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 (Tống, Thái tổ, năm Khai Bảo thứ 1).
Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế, quốc hiệu là Đại Cồ Việt (không rõ tháng nào).
Ngài, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, cha là Công Trứ, mẹ là Đàm thị. Công Trứ, trước kia, làm nha tướng221 của Dương Diên Nghệ, quyền tạm chức Thứ sử Hoan Châu222 , sau theo Ngô Vương, vẫn làm chức cũ. Khi Công Trứ mất rồi, ngài hãy còn nhỏ, Đàm thị đưa về ở động núi. Chăn trâu ngoài nội, chơi với đám trẻ con, ngài được chúng chịu phục cả. Hễ ngài đi đâu, chúng cứ phải tréo tay làm kiệu rước đi, giống như kiệu thật; lại lấy bông lau làm cờ rước kèm hai bên làm như nghi vệ thiên tử. Kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác: đi đến đâu, ở đấy cũng phải phục tùng. Đám thì kiếm củi, thổi cơm; đám thì nộp lương, giúp việc. Mẹ thấy thế, mừng lắm, giết lợn nhà để khao chúng. Khi đã hơi lớn, ngài sai bảo được những người ở ấp lân cận. Phụ lão trong các sách223 đều bảo nhau rằng: “Chú bé này có độ lượng khác thường, chắc rồi làm nên sự nghiệp kia khác”. Họ liền đem con em theo ngài, lập ngài làm trùm, đóng ở sách224 Đào Úc, ngày ngày đi đánh những sách225 khác chưa chịu phục.
Bấy giờ có Thúc Dự226 giữ sách Bông, chống nhau với ngài. Ngài vì quân ít, không địch nổi, thua chạy, qua cầu Đàm Gia. Cầu gẫy, ngài sa lầy. Dự đuổi theo, toan đâm. Bỗng thấy rồng vàng che phủ hai bên, Dự sợ, rút lui. Ngài thu lượm quân gia còn sót, lại đánh: Dự phải hàng.
Hồi ấy phương Nam, phương Bắc đương rối ren. Sứ quân các bộ thay nhau nổi lên, mỗi người xưng hùng một nơi, chia cắt đất nước. Nghe biết Trần Minh Công là người có đức, ngài đến nương tựa, Minh Công sai giữ binh quyền. Khi Minh Công mất, ngài sẵn có quân ấy, giữ luôn Hoa Lư, chiêu mộ thu dùng hào kiệt, thủ hiểm một nơi. Hai vua Nam Tấn và Thiên Sách nhà Ngô đánh mãi không được. Kịp khi nhà Ngô mất, ngài hàng phục được Phạm Phòng Át, phá được Đỗ Động, hạ thành, đánh ấp, đến đâu thắng đấy, được tôn gọi là Vạn Thắng Vương. Dẹp tan mười hai Sứ quân, tự lập làm hoàng đế.
Lời chua – Đại Hoàng: Tên châu, bây giờ là huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình.
Đàm Gia: Tên thôn, bây giờ là xã Điềm Xá, huyện Gia Viễn.
Động Hoa Lư: Xem Nam Tấn Ngô Xương Văn năm thứ 1 (Tb.V, 24-25).
Mười hai Sứ quân: Xem ngang với Tống, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb.V, 27-28).
Đỗ Động Giang: Xem ngang với Tống, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb.V, 29).
Đóng đô ở Hoa Lư.
Nhà vua muốn đóng kinh đô ở thôn Đàm, nhưng vì ở đấy, đất đã chật hẹp, lại không có thế hiểm trở, nên mới dựng kinh đô mới ở Hoa Lư: đắp thành, đào hào, làm cung điện, đặt nghi lễ trong triều.
Bầy tôi dâng tôn hiệu227 .
Tôn hiệu nhà vua là Đại Thắng Minh hoàng đế.
Đặt vạc, nuôi cọp để ra oai với người có tội.
Nhà vua muốn dùng oai lực để chế trị thiên hạ, mới đặt vạc lớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: “Hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay cho hổ ăn thịt”. Ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp.
Lời phê – Đạo trời ưa kẻ khiêm nhường, đạo người răn người tự mãn. Tiên Hoàng nhà Đinh là người vô học, không có mưu mô gì, chỉ quan dữ tợn, kiêu căng, đến nỗi cuối cùng cả hai cha con đều bất đắc kỳ tử, mới được hai đời đã mất! Nhân đức và tàn bạo thật khác nhau hẳn: đáng làm gương chung. Đinh kêu là Vạn Thắng, Tần mong được vạn thế, xe trước xe sau cùng đi một vết, thương thay! Kỷ Tị, năm thứ 2 (969). (Tống, năm Khai Bảo thứ 2).
Tháng 5, mùa hạ. Lập con là Liễn làm Nam Việt vương.
Canh Ngọ, năm Thái Bình thứ 1 (970). (Tống, năm Khai Bảo thứ 3).
Tháng giêng, mùa xuân. Đặt niên hiệu228 sai sứ sang nhà Tống.
Bấy giờ chúa Nam Hán là Sưởng chống lại nhà Tống. Tống sai đại tướng Phan Mỹ đi đánh. Nhà vua nghe tin, sợ, mới sai sứ sang giao hảo với Tống.
Lập năm Hoàng hậu.
Năm Hoàng hậu: 1) Đan Gia; 2) Trinh Minh; 3) Kiểu Quốc; 4) Cồ Quốc; 5) Ca Ông.
Lời bàn của Lê Văn Hưu – Đinh Tiên Hoàng đã không kê cứu cổ học, bầy tôi lại không ai biết sửa chữa cho, đến nỗi say đắm tình riêng, lập nên một loạt cả năm Hoàng hậu! Sau này, Lê, Lý, nhiều vua cũng bắt chước, làm theo, là do Đinh Tiên Hoàng đầu têu ra đó. Tân Mùi, năm thứ 2 (971). (Tống, năm Khai Bảo thứ 4).
Đặt phẩm cấp cho quan văn, quan võ: Nguyễn Bặc làm Định quốc công; Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư229 ; Lê Hoàn làm Thập Đạo230 tướng quân.
Lời chua – Đô hộ phủ: Theo Địa lý chí trong Đường thư , nhà Đường đặt Đô hộ phủ, trị sở ở Long Biên; nhà Đinh vẫn để tên cũ ấy đặt quan cai trị.
Sĩ sư: Tên chức quan. Có lẽ phỏng theo tên chức quan coi việc hình phạt của đời Đường, Ngu xưa.
Nguyễn Bặc, Lưu Cơ: Đều là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng.
Lê Hoàn: Người xã Bảo Thái huyện Thanh Liêm231 .
Ban hiệu Khuông Việt thái sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu.
Nhà vua tôn sùng đạo Phật, mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ: ban hiệu Thái sư232 cho Chân Lưu, lại cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ233 , Đặng Huyền Quang làm Sùng chân uy nghi234 .
Nhâm Thân, năm thứ 3 (972). (Tống, năm Khai Bảo thứ 5).
Sai Nam Việt vương Liễn sang nhà Tống.
Đem biếu sản vật địa phương.
Quý Dậu, năm thứ 4, (973). (Tống, năm Khai Bảo thứ 6).
Sứ nhà Tống sang.
Bấy giờ Nam Việt vương Liễn đi sứ về, nhà Tống sai sứ sang phong nhà vua làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. Bài chế văn đại lược nói: “Họ Đinh vốn dòng họ đàn anh, giữ được đất xa, có lòng hâm mộ phong thói văn minh, thường tỏ ý muốn phụ thuộc với Trung Quốc. Nay gặp buổi chín châu235 đã về một mối, Ngũ Lĩnh236 đã phẳng lặng thanh bình, họ Đinh sai sứ trèo non vượt bể tới nơi, dâng đồ tiến cống. Đáng khen con237 biết giữ lễ phiên thần, nên ban cho cha238 theo lối cắt đất phong tước. Theo cấp bậc, cho được cầm binh quyền, tự chủ trong việc đánh dẹp ở phương xa239 . Còn về công phú thì sắp xếp vào ngạch “tỉnh phú”240 . Thế là để khen thưởng người già cả mà có đức hạnh, chứ há có hạn chế trong điển chương pháp độ thường đâu?”.
Giáp Tuất, năm thứ 5 (974). (Tống, năm Khai Bảo thứ 7).
Tháng 2, mùa xuân. Tổ chức quân đội trong mười đạo.
Chia trong nước làm mười đạo. Tổ chức quân đội: mỗi đạo mười quân, mỗi quân mười lữ, mỗi lữ mười tốt, mỗi tốt mười ngũ, mỗi ngũ mười người, đều đội mũ “tứ phương bình đính”.
Lời chua – Mũ “Bình đính”: Làm bằng da, bốn bề khâu giáp lại với nha: trên hẹp, dưới rộng, chóp phẳng.
Mười đạo: Chia đặt thế nào không rõ.
Ất Hợi, năm thứ 6 (975). (Tống, năm Khai Bảo thứ 8).
Mùa xuân. Quy định mũ áo quan văn, quan võ.
Mùa thu. Sứ Tống lại sang.
Bấy giờ nhà vua sai Trịnh Tú đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống. Tống sai hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng với Vương Ngạn Phù đem chế văn sang gia phong cho Nam Việt vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ti Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đây, hễ sai sứ sang Tống đều cử Đinh Liễn đứng đầu.
Lời phê241 – Sự thực bấy giờ thế nào thật không rõ được, hoặc giả có điều gì giấu giếm mà như thế chăng? Lời cẩn án – Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép rằng: Bộ Lĩnh đề cử con là Liễm làm Tiết độ sứ, rồi lại nhường ngôi cho con. Khi Nam Hán mất, Đinh Liễn vào cống. Sách Đông Đô sự lược242 chép: Đinh Liễn nối ngôi cha. Lúc nhà Tống bình được đất Lĩnh Nam, Liễn sai sứ xin nội phụ. Có lẽ bấy giờ Tiên Hoàng cầm quyền trị vì trong nước, còn việc bang giao trọng đại thì giao cả cho Đinh Liễn, nhà Tống phong vương cho Đinh Liễn, chừng có ý để Liễn nối ngôi cha; về phần Tiên Hoàng, vì đã xưng Hoàng đế ở trong nước rồi, nên cũng không thắc mắc về chuyện đó chăng? Lời chua – Trịnh Tú: Người châu Đại Hoàng.
Bính Tí, năm thứ 7 (976). (Tống, Thái Tông năm Thái Bình hưng quốc thứ 1).
Mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Sai Trần Nguyên Thái đem biếu sản vật địa phương.
Đinh Sửu, năm thứ 8 (977). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 2).
Sai sứ sang Tống.
Mừng việc Tống Thái Tông (976-997) lên ngôi.
Mậu Dần, năm thứ 9 (978). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 3).
Tháng giêng, mùa xuân. Động đất.
Lập con nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương.
Tháng hai. Mưa đá.
Lời chua – Mưa đá: Mưa thành băng; bởi vì khí dương bị khí âm lấn lướt, không dung nạp được nhau, nên tan ra thành mưa đá.
Tháng 6, mùa hạ. Hạn hán.
Lời bàn của Nguyễn Nghiễm, người làng Tiên Điền: Về việc Tiên Hoàng lập Hạng Lang, trước đó thì có động đất, sau đó thì có mưa đá, có hạn hán. Trời kia răn bảo trờ trờ ra đấy; thế mà cứ coi làm thường, không sớm tỉnh ngộ! Vậy, muốn không mất, phỏng được chăng? Kỷ Mão, năm thứ 10 (979). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 4).
Mùa xuân. Nam Việt vương Liễn giết Thái tử Hạng Lang.
Liễn là con trưởng, khó nhọc mà có công to; khi nhà vua đã được nước, Liễn được phong là Nam Việt vương lại từng nhận tước phong của Tống. Khi có Hạng Lang, nhà vua tư vị cưng chiều, lập làm thái tử. Vì thế, Liễn bất bình, sai người ngầm giết Hạng Lang.
Tháng 10 mùa đông. Chi hậu nội nhân243 Đỗ Thích giết nhà vua và Nam Việt vương Liễn. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích giết đi, rước Vệ vương Toàn lên ngôi.
Trước kia, Đỗ Thích làm chức lại244 ở Đồng Quan, đêm nằm ở trên cầu, bỗng thấy sao sa vào miệng, tự phụ là điềm lạ, manh tâm làm điều vượt phận mình. Đến đây, nhân dịp nhà vua đêm ăn yến, say rượu, nằm ở trong sân cung cấm, bèn giết nhà vua luôn với Nam Việt vương Liễn. Bấy giờ sự lùng bắt giặc gắt gao quá. Đỗ Thích nằm núp ở lòng máng trong cung, đã hơn ba ngày, khát lắm, gặp trời mưa, thò tay ra hứng nước uống. Cung nữ trông thấy, chạy báo Nguyễn Bặc. Nguyễn Bặc bắt lấy Thích, chém chết. Rồi cùng bọn Đinh Điền, Lê Hoàn rước Vệ vương Toàn lên ngôi; truy tôn nhà vua là Tiên Hoàng đế.
Đinh Tiên Hoàng ở ngôi 12 năm, thọ 56 tuổi.
Lời chua – Đỗ Thích: Người Đại Đê thuộc Thiên Bản245 .
Đồng (mộc bên chữ “đồng” là cùng) Quan: Sử của Ngô [Thì] Sĩ chép là Đồng (chấm thủy bên chữ “đồng” là trẻ con) Quan. Bây giờ không biết ở đâu.
Táng ở sơn lăng Hoa Lư.
Lời cẩn án – Về việc an táng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành . Sử cũ đều chép táng ở sơn lăng Trường Yên. Nay theo Ninh Bình sách4 lăng Tiên Hoàng ở núi Mã Yên thuộc xã Trường Yên Thượng, lăng Đại Hành ở núi Phẩm Sơn thuộc xã Trường Yên Hạ. Thế thì hai xã Trường Yên tức là đất Hoa Lư, cố đô nhà Đinh, nhà Lê; đến niên hiệu Thuận Thiên thứ 1 (1010), nhà Lý mới đổi Hoa Lư làm phủ Trường Yên. Vậy tên gọi “Trường Yên” ở thời Đinh, Lê chưa có . Sử cũ chép thế thì lầm, nay xin đính chính. Tôn mẹ là Dương thị làm Hoàng thái hậu.
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn tự xưng là Phó vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp247 Đinh Điền và Phạm Hạp dấy quân đánh Lê Hoàn, không được, đều tử tiết.
Nhà vua nối ngôi, mới lên sáu tuổi. Bọn Nguyễn Bặc đều là đại thần phụ chính; còn Lê Hoàn trong tay giữ cả binh quyền, tự do ra vào nơi cung cấm. Thái hậu phải lòng Hoàn, rồi cùng nhau tư thông, cho Hoàn quyền tạm làm công việc thay vua như Chu Công248 khi trước. Lê Hoàn cậy có Thái hậu cưng yêu, không kiêng sợ chi cả. Bọn Nguyễn Bặc bàn với nhau: “Lê Hoàn sẽ bất lợi cho “nhụ tử”249 ; chúng ta chịu ơn dày của nước, nếu không tính tước đi, giữ cho xã tắc được yên thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế250 ở suối vàng nữa?”. Họ liền cùng nhau khởi binh, chia hai đường thủy bộ cùng tiến,
định kéo thẳng đến kinh đô để giết Lê Hoàn. Thái hậu nghe tin, bảo Lê Hoàn: “Bọn Bặc nổi loạn, quan gia251 hãy còn thơ ấu, cáng đáng sao nổi giữa lúc quốc gia lắm nạn này! Ông nên tính đi”. Lê Hoàn thưa: “Tôi đây làm phó vương, quyền giữ việc nước, dù sống chết cũng xin gánh lấy trách nhiệm”. Hoàn liền sắp xếp quân đội, đánh nhau với Nguyễn Bặc, Đinh Điền ở Ái Châu. Bặc, Điền thua rồi, lại đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn theo chiều gió, phóng lửa đốt cả thuyền chiến: Đinh Điền bị chết tại trận; Hoàn bắt được Nguyễn Bặc, đưa về kinh đô. Trước mặt Nguyễn Bặc, Hoàn kể tội: “Đấng Tiên đế mắc nạn, thần và người đều căm giận, ngươi lại nhân lúc tang tóc rối ren, đứng đầu làm giặc! Đạo tôi con đâu có như thế?”. Rồi Hoàn giết hại Bặc. Nguyễn Bặc, Đinh Điền đã chết rồi, quân của Phạm Hạp mất tinh thần, chạy lên Bắc Giang; Lê Hoàn đem quân đuổi theo, bắt đưa về kinh đô, giết chết.
Lời cẩn án – Sử cũ chép Nguyễn Bặc, Đinh Điền cùng nhau dấy quân, đinh kéo đến thẳng kinh đô để giết Lê Hoàn, nhưng địa điểm dấy quân ở đâu thì bỏ qua không chép. Nay xét: Lê Hoàn với Bặc, Điền đánh nhau ở Tây Đô, Tây Đô tức là Ái Châu2. Hoặc giả khi đã bàn định về việc giết Hoàn, họ liền đến Ái Châu khởi binh, mà Sử cũ bỏ sót chăng? Vậy hãy để lại, đợi khảo sau . Lời chua – Ngoại giáp: Tên chức quan.
Đinh Điền: Người động Hoa Lư253 , châu Đại Hoàng.
Phạm Hạp: Người Nam Sách254 : bây giờ là phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Bắc Giang255 : Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 10 (Chb.XXI, 28-29).
Ngô Nhật Khánh đem người Chiêm Thành vào cướp.
Nhật Khánh là dòng dõi Tiên chúa Ngô Quyền, trước kia xưng là An Vương, cùng với mười hai Sứ quân giữ đất, tranh hùng. Đinh Tiên Hàng đánh dẹp được Nhật Khánh rồi, lập mẹ y làm hoàng hậu, lấy em gái y cho Nam Việt vương Liễn, lại gả công chúa cho y. Nhưng Nhật Khánh vẫn không hết oán giận, bèn đem vợ trốn đi. Khi đến cửa biển Nam Giới, Khánh rút dao đeo bên mình ra rạch vào mặt vợ mà kể: “Cha mày lừa gạt hiếp tróc mẹ con ta. Ta đây há vì cớ mày mà quên được tội ác cha mày sao? Thôi, mày trở về, một mình ta đi, ta cầu người nào cứu được ta đây!”. Đoạn, Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành. Đến đây, nghe tin Tiên Hoàng mất rồi, Nhật Khánh dẫn người Chiêm đi đường biển vào cướp. Khi qua cửa Đại Nha và cửa Tiểu Khang, gặp cơn phong ba, thuyền chìm đắm mất cả. Nhật Khánh chết đuối. Chúa Chàm (Chiêm Thành) may được thoát nạn, bèn thu thập những quân còn lại, rút về.
Lời chua – Nhật Khánh: Người xã Đường Lâm256 ; bây giờ là xã Cam Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây.
Chiêm Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb.III, 20-21).
Cửa biển Nam Giới: Ở chổ giáp giới hai huyện Thiên Lộc257 và Thạch Hà.
Cửa Đại Nha: ( á bên chữ điểu ): Tức cửa Đại Nha ( nha bên chữ điểu ). Xem Lý Hậu đế năm thứ 1 (Tb.IV, 13).
Cửa Tiểu Khang: Ở địa phận huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; bây giờ là cửa Kiền (cũng gọi cửa Cờn hoặc cửa Quèn).
Canh Thìn năm thứ 11 (980). (Đế Toàn, vẫn theo niên hiệu Thái Bình. Từ tháng 7 năm Thái Bình thứ 11 trở về sau là triều Lê, Đại Hành hoàng đế, năm Thiên Phúc thứ 1. – Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 5).
Tháng 7, mùa thu. Dương thị sai Lê Hoàn đem quân ra chống quân Tống. Lê Hoàn liền tự xưng là Hoàng đế, truất bỏ Đế Toàn lại làm Vệ vương. Nhà Đinh (968-980) mất.
Trước đây, viên quan giữ Ung Châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thư nói bên Giao Châu đương có nội loạn, ta có thể đem một ít quân sang cũng đủ lấy được, xin cho mình về triều đình để trình bày về tình hình này. Vua Tống mừng lắm, toan cho chạy ngựa trạm triệu Nhân Bảo về ngay. Lư Đa Tốn nói: “Nước kia bên trong rối loạn, đó là cơ trời làm mất. Ta nên xuất kỳ bất ý mà đánh úp. Thế gọi là “tiếng sét đánh mau, che tai không kịp”. Nếu vời Nhân Bảo về trước, mưu sẽ tất lộ; kẻ kia biết trước, chuẩn bị đề phòng, thì ta chưa dễ đã lấy được. Chi bằng mật sai Nhân Bảo lo liệu việc ấy, rồi sẽ xuất quân đánh tràn sang, thế tất ăn chắc mười mươi”. Vua Tống cho là pải, liền cho Nhân Bảo làm chức Giao Châu thủy lục chuyển vận sứ, bọn Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực đều cho làm chức Binh mã đô bộ thự, hẹn ngày cùng kéo quân sang xâm.
Viên quan giữ Lạng Châu đem sự đó tâu lên, Dương hậu sai Lê Hoàn lựa tuyển dũng sĩ để kháng chiến: cho Phạm Cự Lạng258 làm Đại tướng quân, bày mưu kế đem quân ra đánh. Cự Lạng và các tướng đều mặc quân phục, vào thẳng điện đình, bảo mọi người rằng: “Nay, thưởng người có công mà phạt kẻ không vâng mạng, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao, thì ta biết cho? Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập đạo tướng quân lên làm thiên tử, sau sẽ ra quân?”. Quân sĩ đều tung hô “vạn tuế”. Dương hậu thấy ai cũng một lòng hả hê mến phục, liền sai lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn rồi chính Dương hậu khuyên mời Lê Hoàn làm vua. Hoàn bấy giờ mới lên ngôi, đổi niên hiệu, giáng chức Đế Toàn xuống làm Vệ vương như cũ.
Lời phê259 – Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội3 vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống4 thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu? Lời cẩn án – Sử Cương mục (Trung Quốc) nêu lệ chép năm tháng: Khi thiên tử nối đời nhau, thì cứ ở dưới dòng5 viết tên thụy và tên hiệu bằng chữ đỏ. Chỗ “lời chua” trong Sử ấy nói rằng: “Về sau, nếu vua nào bị phế, không có thụy hiệu, thì chỉ chép là “Đế mỗ”, chứ không dùng đến cái tước do người sau đã biếm truất mà đặt cho. Thí dụ như Hải Tây Công nhà Tấn bị Hoàn Ôn6 phế truất Cương mục chép chữ lớn là “Đế Dịch”.
Phép chép thẳng tên húy như thế là vì thấy không có tên thụy. Đó là lệ ngoại của Cương mục. Thế mà Sử cũ (của ta), đối với Đinh Toàn chép là “Phế đế”, nay xin sửa lại, chép là Đế Toàn, cho hợp ý nghĩa và thể lệ trong sử Cương mục trên . Lời chua – Ung Châu: Theo Thanh Nhất thống chí , Ung Châu thuộc về Quảng Tây thống bộ.
Hầu Nhân Bảo: Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép Nhân Bảo là chồng em gái Triệu Phổ. Lư Đa Tốn có hiềm khích với Triệu Phổ, bèn bẩy Nhân Bảo ra làm Tri châu Ung Châu, chín năm không được đổi đi nơi khác. Nhân Bảo sợ rằng nay lần mai lữa sẽ chết già ở đất Lĩnh Ngoại, bấy giờ mới dâng thư nói việc Giao Châu, xin về tận triều đình tỏ bày sự trạng.
Giao Châu: Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb.IV, 19).
Lạng Châu: Nhà Lê, nhà Lý đặt làm lộ; nhà Trần gọi là Lạng Giang lộ; bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.
Phạm Cự Lạng: Em Phạm Hạp.
Đây trở lên, nhà Đinh từ Tiên Hoàng, Mậu Thìn, năm thứ một (đến năm thứ ba mới đặt niên hiệu là Thái Bình) đến Đế Toàn, Canh Thìn, vẫn gọi là niên hiệu Thái Bình năm thứ 11, cộng hai đời vua, 13 năm (968-980).
Truy tôn cha là Mịch là Trưởng Hưng vương, mẹ là Đặng thị làm Hoàng thái hậu.
Trước kia, mẹ ngài là Đặng thị đang có thai, chiêm bao thấy bụng nở ra hoa sen, rồi kết thành nhân sen ngay. Đặng thị đem chia cho mọi người, riêng mình lại không ăn. Lúc tỉnh dậy, lấy làm lạ lắm. Kịp khi sinh con, thấy con mặt mũi hình dáng khác thường, Đặng thị nói với người ta rằng: “Thằng cháu này mai sau chắc sẽ làm nên sang cả, chỉ hiềm tôi không kịp hưởng lộc thôi!”. Được vài năm, mẹ mất, rồi cha cũng chết. Viên quan sát họ Lê (không rõ tên) ở Ái Châu thấy ngài, cho là khác thường, nuôi làm con. Gặp tiết trời đông rét mướt, ngài nằm phục như hình cối úp: đang đêm, sáng rực cả nhà, có con rồng vàng ấp ở trên. Viên quan sát họ Lê, tỏ ra lấy làm lạ. Lớn lên, ngài giúp việc Nam Việt vương Liễn, càng tỏ ra lỗi lạc, có chí lớn. Tiên Hoàng khen là người có mưu trí và sức mạnh, giao cho cai quản hai nghìn quân, dần thăng đến chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền chỉ huy sứ. Đến bấy giờ cướp ngôi nhà Đinh, truy tôn cha mẹ.
Lời cẩn án – Chu Vũ vương dấy nghiệp vương thì truy tôn Thái vương, Vương Quý và Văn vương làm bậc vương. Tống Thái Tổ xưng hoàng đế thì tôn Hi Tổ và Dực Tổ làm bậc đế. Lê Đại Hành đã xưng đế, thế mà chỉ tôn cha làm vương, còn từ ông tổ giở lên đều không được dự: thực trái thờng quá lắm! Huống chi tôn cha làm vương mà mẹ lại làm Hoàng thái hậu: đảo ngược đến như thế! Về sau, Lý Thái Tổ tôn cha làm Hiển Khánh vương, mẹ là Minh Đức thái hậu, cũng là do Lê Đại Hành nêu ra trước. Lời chua – Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb.XXI, 20-21).
Tháng 10, mùa đông, sai sứ sang nhà Tống.
Bấy giờ vua Tống hạ chiếu xuất quân sai Lư Đa Tốn đưa thư sang ta khuyên dụ, đại lược nói: “Rừng rực xứ nóng, khói tỏa, mù hun, ta hóa ra áng mây của vua Nghiêu, tưới cơn mưa ngọt. Sùng sục chướng khí, mây đốt, đá nung, ta gảy khúc đàn của vua Thuấn, nổi cơn gió mát”260 . Lại nói: “Hiện nay ta
đã sửa sang binh xa và bộ tốt, hiệu lệnh chiêng trống rất nghiêm minh; nếu vâng theo giáo hóa thì được tha; nếu chống lại mệnh lệnh thì sẽ bị trị tội”.
Nhà vua tiếp được thư ấy, sai nha hiệu Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ đem thư sang nhà Tống, nói trá là tờ biểu của Đinh Toàn cầu nối ngôi cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức. Làm vậy, cốt để hòa hoãn tình thế.
Bấy giờ Tống đã dấy quân, nên không ưng thuận. Tống sai Trương Tôn Quyền đem thư sang dụ rằng: “Họ Đinh truyền nối đã được ba đời, trẫm muốn cho Đinh Toàn làm thống súy, khanh261 thì làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây. Đợi khi vào chầu, tất sẽ được ban điển lể ưu hậu. Khanh262 sẽ được trao cờ tiết và cây việt. Có hai đường đấy, khanh nên xét kỹ mà chọn lấy một”. Nhà vua đều ỉm đi, không trả lời.
Tân Tị (981). Lê Đại Hành hoàng đế năm Thiên Phúc thứ 2 (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 6).
Tháng 3, mùa xuân. Quân Tống sang xâm lược. Nhà vua tự làm tướng, đánh bại quân địch.
Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn; Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Nhà vua tự làm tướng, ra kháng chiến: sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan quân ta đánh bất lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả. Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước. Tôn Toàn Hưng đóng quân lại, không đi; Nhân Bảo thường phải thúc giục. Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem chém. Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, trút quân quay về. Nhà vua lại đem các tướng truy kích: quân Khâm Tộ thua to, chết mất quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, điệu về kinh đô. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem tình hình thua trận tâu bày về triều, vua Tống xuống chiếu rút quân về.
Lời chua – Lạng Sơn: Xưa là bộ Lục Hải; đời Hán thuộc về Giao Chỉ; đời Đường thuộc về Giao Châu; Đinh chia làm Lạng Sơn đạo, lại gọi là Lạng Châu; Lê, Lý đặt làm lộ; Trần gọi là Lạng Giang lộ; Lê gọi là Lạng Sơn thừa tuyên. Bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.
Sông Bạch Đằng: X. thuộc Tấn, Cao Tổ, năm Thiên Phúc thứ 3 (Tb.5, 19).
Chi Lăng: Tên xã, thuộc châu Ôn, phủ Trường Khánh, ở đầu địa giới Lạng Sơn.
Sông Chi Lăng: Con sông ở xã Chi Lăng.
Tây Kết: Không rõ ở đâu.
Bầy tôi dâng tôn hiệu263 .
Nhà vua đã thắng được quân Tống, trong nước đâu đấy yên ổn. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Kiền ứng vận thần vũ thăng bình chí nhân quảng hiếu hoàng đế.
Nhâm Ngọ, năm thứ 3 (982). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 7).
Lập Đinh thái hậu là Dương thị làm Đại thắng minh hoàng hậu.
Dương thị, trước kia lấy Đinh Tiên Hoàng, sinh ra Vệ vương Toàn. Toàn nối ngôi, hãy còn nhỏ tuổi. Thái hậu tư thông với nhà vua, mưu việc chuyển dời ngôi nhà Đinh. Đến đây lập Dương thị làm Đại thắng minh hoàng hậu. Lại lập Phụng Kiền chí lý hoàng hậu, Thuận Thánh minh đạo hoàng hậu, Trịnh quốc hoàng hậu và Phạm hoàng hậu, cộng năm Hoàng hậu.
Lời bàn của Ngô [Thì] Sĩ – Đại thắng minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình: Thật là không còn kiêng nể chút gì cả! Sử sách ghi chép, để cười nghìn thu! Sai sứ sang nhà Tống.
Nhà vua sai sứ đi cống, nói thác là sứ giả của Đinh Toàn, vì sợ quân Tống lại sang.
Nhà vua tự mình cầm quân đi đánh nước Chiêm Thành: cả phá được quân địch.
Trước đây, nhà vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm Thành giam giữ. Nhà vua nổi giận; bèn sửa sang thuyền chiến và đồ giáp binh, tự làm tướng, đi đánh, chém được tướng nước ấy là Bề Mi Thuế tại trận và bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chàm bỏ thành chạy. Ta bắt được trăm người cung nữ và vàng bạc châu báu kể có háng vạn, san phẳng cả thành trì264 , phá hủy cả tông miếu265 ; vừa đầy một năm mới về kinh đô.
Lời chua – Chiêm Thành: Tức nước Lâm Ấp. Xem Tiền biên, thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb III, 20-21).
Đói to.
Quý Mùi, năm thứ 4 (983). (Tống, năm Thái Bình hưng quốc thứ 8).
Mùa xuân. Sai sứ sang Tống.
Sai sứ sang giao hảo với nhà Tống, báo cáo về tin đánh thắng Chiêm Thành.
Sông mới đã đào xong.
Khi nhà vua đi đánh Chiêm Thành, từ núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa: đường núi hiểm trở, khó đi, người ngựa đều nhọc mệt, bèn sai đào con sông mới; đến bấy giờ hoàn thành, công và tư đều được tiện lợi.
Lời chua – Núi Đồng Cổ: Ở xã Đan Nê, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa.
Sông Bà Hòa: Ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bây giờ là sông xã Đồng Hòa.
Giáp Thân, năm thứ 5 (984). (Tống, năm Ung Hi thứ 1).
Tháng 2, mùa xuân. Đúc tiền Thiên Phúc.
Xây điện Bách bảo thiên tuế.
Làm điện ở núi Đại Vân, trang sức bằng vàng bạc, dùng làm nơi vua coi chầu. Phía đông là điện Phong Lưu; phía tây là điện Tử Hoa; bên tả là điện Bồng Lai; bên hữu là điện Cực Lạc. Lại làm lầu Đại Vân và điện Trường Xuân làm chổ ngự tẩm266 . Bên điện Trường Xuân dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc.
Lời chua – Núi Đại Vân: Ở thành Hoa Lư; bây giờ là núi xã Trường Yên.
Ất Dậu, năm thứ 6 (985). (Tống, năm Ung Hi thứ 2).
Tháng 7, mùa thu. Ngày sinh nhật hoàng đế, đua thuyền.
Lấy tre làm thành núi giả ở trong thuyền gọi là núi “nam sơn”, tổ chức cuộc bơi thuyền thi. Từ đấy, năm nào cũng giữ làm lệ thường.
Sai sứ sang Tống.
Bấy giờ nhân dịp có sứ nhà Tống đến nhà vua sai sứ ta đem vàng và ngà voi sang biếu nhà Tống để thỉnh cầu lãnh chức Tiết trấn.
Bính Tuất, năm thứ 7 (986). (Tống, năm Ung Hi thứ 3).
Tháng 8, mùa thu. Tuyển lính thân quân.
Tuyển những người khoẻ mạnh, nhanh nhẹn bổ làm túc vệ gọi là thân quân: đều thích vào trán ba chữ “Thiên tử quân”.
Tháng 10, mùa đông. Sứ nhà Tống sang.
Nhà Tống sai tả bổ khuyết là Lý Nhược Chuyết và quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác đem bài chế văn sang phong nhà vua làm kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái uý, An nam đô hộ Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, Kinh Triệu quận khai quốc hầu. Bài chế văn ấy đại lược nói: “…Trước kia Sĩ Nhiếp là người cứng cáp sáng suốt, biến đổi thói tục đất Việt khiến hết thảy đều vào khuôn phép. Úy Đà267 hết lòng cung kính mềm dẻo, vâng theo chiếu chỉ nhà Hán, không dám trái nghịch. Bây giờ khanh phải vỗ yên bộ lạc man di, để tuyên dương ơn đức của thiên tử”. Nhà vua tiếp nhận chế văn ấy với vẻ rất cung kính, thiết đãi sứ giả với lễ rất hậu. Rồi giao trả Tống bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân trước đây ta đã bắt được. Nhà vua lại bảo Nhược Chuyết và Lý Giác: “Chỗ chúng tôi là một nước nhỏ mọn, núi sông khơi diễn, hẻo lánh một nơi, cách thiên triều hàng muôn dặm. Sứ giả đi lại, trèo non vượt suối, chẳng cũng nhọc mệt lắm ru?”. Lý Giác thưa: “Bản triều268 phân phong chư hầu, đất hàng muôn dặm, quận hàng bốn trăm, có chỗ bằng phẳng, cũng có nơi hiểm trở, chứ như một phương này, đã lấy gì làm xa?”.
Dùng Từ Mục là Tổng quản giữ việc quân và dân, ban cho tước hầu; Phạm Cự Lạng làm Thái úy.
Lời chua – Tổng quản: Tên chức quan nhà Đường, chuyên giữ quân sự. Nhà Lê phỏng theo phép nhà Đường, đặt chức quan này, lại cho kiêm giữ cả dân sự.
Sai sứ sang Tống.
Sai Ngô Quốc Ân đem sản vật địa phương sang biếu và nói về việc người Chàm là Bồ La Át đem hơn trăm người trong họ sang xin quy phụ nhà Tống.
Lời cẩn án – Sử của Ngô [Thì] Sĩ chép: “Bấy giờ nhà vua mới bình được Chiêm Thành, người Chiêm Thành sợ bị lấn lướt bức bách, nên đem hơn trăm người trong họ cầu xin quy phụ nhà Tống. Nhà đương cục ở Đam Châu đem việc ấy tâu lên triều Tống. Việc này nhà làm sử nhận lầm là do sứ thần nước ta sang Tống tâu bày”. Xét chỗ sử của Ngô [Thì] Sĩ này không giống với Sử cũ, nay xin chép cả để làm tài liệu tham khảo. Lời chua – Đam Châu: Tức Đam Nhĩ. Xem Triệu Vương, năm Kiến Đức thứ 1 (Tb.II, 6).
Đinh Hợi, năm thứ 8 (987). (Tống, năm Ung Hi thứ 4).
Mùa xuân. Nhà vua cày ruộng tịch điền269 .
Ban đầu, nhà vua cày ruộng ở Đội Sơn270 , được một lọ vàng; sau lại cày ở núi Bàn Hải, được một lọ bạc; do đó đặt tên là “ruộng Vàng, ruộng Bạc”.
Lời chua – Đội Sơn: Tên khác gọi là núi Long Đội, ở xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nội271 .
Núi Bàn Hải: Không rõ ở đâu.
Đâu đấy được mùa cả.
Mậu Tí, năm thứ 9 (988). (Tống, năm Đoan Củng thứ 1).
Sứ nhà Tống sang.
Năm ấy, vua Tống đổi niên hiệu, sai viên ngoại lang bộ Hộ là Nguỵ Tường, trực sử quán là Lý Độ đem bài chế văn sang tiến phong nhà vua tước Khai quốc công. Nhà vua sai sứ sang Tống biếu sản vật địa phương để đáp lễ.
Lời cẩn án – Theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng và sách Giao Chỉ di biên, năm Ung Hi thứ 3 (986), Tống phong nhà vua làm kiểm hiệu thái uý Kinh Triệu quận Khai Quốc hầu; đến năm Đoan Củng thứ 1 (988), tiến phong làm Khai Quốc công. Thế là có theo thứ tự từ thấp lên cao. Sử cũ trước thì chép phong Kinh Triệu Quận hầu, ở đây thì chép phong Kiểm hiệu thái uý: Như vậy là lầm. Nay đính chính lại. Kỷ Sửu, năm Hưng Thống thứ 1 (989). (Tống, năm Đoan Củng thứ 2).
Tháng giêng, mùa xuân. Đại xá.
Ban ơn đại xá vì cớ đổi niên hiệu là Hưng Thống.
Lập con là Long Việt làm Nam Phong vương.
Phong con trưởng là Long Thâu làm Kình Thiên đại vương con thứ hai là Ngân Tích làm Đông Thành vương; lập con thứ ba là Long Việt làm Nam Phong vương272 .
Dương Tiến Lộc đem dân châu Hoan và châu Ái nổi lên làm phản, bị bắt và bị giết chết.
Tiến Lộc, làm chức Quản giáp, vâng mệnh đi thu thuế ở châu Hoan và châu Ái. Nhân đó, Lộc cầm đầu hai châu ấy nổi lên làm phản, rồi xin theo về với nước Chiêm Thành; nhưng người Chiêm Thành không nhận. Nhà vua đem quân đi đánh bắt giết được Tiến Lộc và giết người hai châu ấy không biết bao nhiêu mà kể.
Lời chua – Hoan Châu: Tức Nghệ An.
Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 20-21).
Chiêm Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tb. III, 20-21).
Quản giáp: Tên chức quan.
Canh Dần, năm thứ 2 (990). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 1).
Sứ nhà Tống sang.
Nhà Tống sai Tả chính ngôn là Tống Cảo và Hữu chính ngôn là Vương Thế Tấc đem bài chế văn sang gia phong nhà vua lên chức vị “đặc tiến”273 . Nhà vua sai chỉ huy sứ Đinh Thừa Chinh đem chu sư274 sang Thái Bình quân đón sứ nhà Tống, ròng rã nửa tháng trời đến sông Bạch Đằng, cứ theo nước thuỷ
triều mà đi. Khi đến Trường Châu275 nhà vua ra đón sứ giả ở phía ngoài đô thành, cùng nhau giong cương ngựa đi song song. Đến cửa Minh Đức, nhà vua đón lấy bài chế văn nhưng không lạy, nói vì năm mới rồi, đi đánh giặc Mán, ngã ngựa đau chân. Bọn Tống Cảo tin là thực. Ngày hôm sau, đặt tiệc đãi sứ, nhà vua bảo Tống Cảo rằng: “Đường sá xa khơi, núi sông hiểm trở, sau này nếu có quốc thư, xin cứ giao nhận ở đầu biên giới, khỏi phiền sứ giả đến đây”. Tống Cảo đem việc này về tâu, vua Tống ưng thuận.
Theo lời chú giải trong sách Đông tây dương khảo của Trương Nhiếp nhà Minh, Tống Cảo đi sứ về, nói với vua Tống rằng: năm ngoái, đến Giao Châu, Lê Hoàn đem quân và dân bơi thuyền, gióng trống, hò reo; những núi ở gần đô thành thì hư trưng thanh thế: cắm rặt cờ trắng, làm như dáng vẻ bày binh bố trận. Kịp khi đến cửa kinh đô, Lê Hoàn nhận lấy tờ chiếu, nhưng không lạy. Có đưa đến sứ quán con rắn lớn và nói: nếu sứ giả ăn được thì sẽ làm thịt để thết. Lại trói hai con hổ đem đến sứ quán. Sứ giả đều từ chối, không nhận. Ba nghìn quân sĩ của Lê Hoàn đều có thích ở trán ba chữ “Thiên tử quân”.
Lời chua – Thái Bình quân: Theo sách Thanh Nhất thống chí , Thái Bình quận, đời Tần, là đất Tượng Quận; đời Hán là huyện Hợp phố; nhà Đường đổi là Liêm Châu; đến Tống, khoảng niên hiệu Thái bình hưng quốc276 đặt làm Thái Bình quân, qua niên hiệu Hàm Bình277 lại đặt là Liêm Châu. Bây giờ nhà Thanh vẫn theo tên cũ, cho thuộc Quảng Đông thống bộ.
Bạch Đằng Giang: Xem thuộc Tấn, Cao tổ, năm Thiên Phúc thứ 3 (Tb. V, 19-20).
Trường Châu: Xem thuộc Đường, Cao tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV, 19).
Tân Mão, năm thứ 3 (991). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 2).
Tháng 2, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Sai Đào Cần đem biếu sản vật địa phương.
Nhâm Thìn, năm thứ 4 (992). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 3).
Tháng giêng, mùa xuân. Nhà vua ngự điện Kiền Nguyên xem đèn.
Lập con là Long Đĩnh làm Khai Minh vương.
Bấy giờ các con nhà vua đều theo thứ tự thụ phong, chia ở các châu quận: Khai Minh vương Long Đĩnh ở Đằng Châu; Ngự Man vương Long Đinh ở Phong Châu; Ngự Bắc vương Long Ngận ở Phù Lan; Định Phiên vương Long Tung ở Ngũ huyện giang, Tư Doanh Thành phó vương Long Tương ở Đỗ Động; Trung Quốc vương Long Kính ở Mạt Liên; Nam Quốc vương Long Mang ở Vũ Lũng; Hành quân vương Long Đề278 ở Cổ Lãm; Phù Đới vưoơng (không rõ tên), con nuôi nhà vua, ở Phù Đái.
Lời chua – Long Đĩnh: Con thứ 5.
Long Đinh: Con thứ 4.
Long Ngận: Con thứ 6.
Long Tung: Con thứ 7.
Long Tương: Con thứ 8.
Long Kính: Con thứ 9.
Long Mang: Con thứ 10.
Long Đề: Con thứ 11.
Đằng Châu: Xem thuộc Tống, năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 31).
Phong Châu: Xem Hùng vương (Tb. I, 1).
Phù Lan: Tên trại; nay là xã Phù Vệ thuộc huyện Đường Hào279 tỉnh Hải Dương.
Ngũ huyện giang: Ở phía nam huyện Yên Lãng280 , tỉnh Sơn Tây, sông Ngũ huyện chảy qua huyện Kim Anh281 và huyện Đông Ngàn282 , vòng quanh đến huyện Yên Phong283 và huyện Tiên Du284 , rồi đổ vào sông Nguyệt Đức285 .
Tư Doanh Thành: Không khảo được.
Đỗ Động: Xem ngang với nhà Tống năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 29).
Mạt Liên: Tên huyện, bây giờ là huyện Tiên Lữ286 thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Vũ Lũng: Tên châu, thuộc tỉnh Thanh Hóa; nhiều lần phân chia ra sao và lệ thuộc vào đâu, bây giờ không khảo được.
Cổ Lãm: Tên châu; bây giờ là huyện Đông Ngàn thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Phù Đái: Tên làng; bây giờ là xã Phù Tải thuộc huyện Vĩnh Lại287 , tỉnh Hải Dương.
Tháng 6, mùa hạ. Thả những người Chiêm Thành bị bắt từ trước về nước.
Thả những người Chiêm ở thành cũ châu Địa Lý cho về châu Ô Lý, tất cả hơn ba trăm sáu mươi người.
Lời chua – Địa Lý: Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chb. III, 29).
Ô Lý: Xưa là đất Việt Thường; đời Tần, thuộc Tượng quận; đời Hán, thuộc Nhật nam; đời Đường, là Cảnh Châu; thời Tống, phía bắc Chiêm Thành gọi là châu Ô Lý. Nhà Trần, khoảng niên hiệu Hưng Long (1293-1313) được chúa Chàm dâng đất này, đổi là Thuận Châu và Hóa Châu. Hồi thuộc Minh, đặt là phủ Thuận Hóa, cho Thuận Châu và Hóa Châu lệ thuộc vào. Nhà Lê đặt làm Thuận Hóa thừa tuyên. Bây giờ huyện Đăng Xương, huyện Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị, và huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền, huyện Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên, ấy là đất Thuận Châu xưa. Huyện Phú Lộc, huyện Phú Vinh thuộc tỉnh Thừa Thiên và huyện Diên Phước (phúc), huyện Hòa Vinh thuộc tỉnh Quảng Nam, ấy là đất Hóa Châu xưa.
Tháng 8, mùa thu. Sai mở đường bộ thông đến châu Địa Lý.
Sai phụ quốc Ngô Tử An đem ba vạn người mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến châu Địa Lý nước Chiêm Thành.
Lời chua – Phụ quốc: Tên chức quan.
Cửa biển Nam Giới: Xem nhà Đinh, năm Thái Bình thứ 10 (Chb. 1, 12).
Quý Tị, năm thứ 5 (993). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 4).
Mồng 1 tháng 2, mùa xuân. Nhật thực.
Sứ nhà Tống sang.
Bấy giờ nhà vua sai sứ sang cống và dâng tờ biển Đinh Toàn nhường ngôi. Vì sờn về nỗi Tôn Toàn Hưng đã bại trận, vua Tống cũng ưng thuận, mới sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem bài chế văn sang phong nhà vua làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, Giao Chỉ quận vương.
Sử Cương mục tục biên (Trung Quốc) chép: Năm Thuần Hóa thứ 4 (993), Lê Hoàn đưa lễ sang cống, phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương. Bài “Phát minh” trong sử trên bàn rằng: Thiên tử sở dĩ được quý, là chỉ vì vâng mệnh trời, đánh giết kẻ phản nghịch. Giao Châu là đất đã do họ Đinh giữ trước. Năm Khai Bảo thứ 6 (973), Đinh Liễn vào cống, vâng mạng chịu phong vương. Vậy thì con cháu nối nghiệp, là theo đúng lễ. Đinh Liễn mất rồi, em là Đinh Toàn nối ngôi. Bộ tướng là Lê Hoàn lừa gạt kiềm chế chủ mình, giành nắm quyền chính. Đó thực là kẻ loạn thần, tặc tử. Đối với pháp luật của vương giả, tất phải tru diệt. Nay vua Tống thấy Lê Hoàn cho sang tiến cống, cũng gia phong cho tước vương. Thế là tước vương ở Giao Chỉ có thể cứ dùng thế lực mà chiếm được, chứ có phải nhận lấy bằng lễ nghĩa đâu! Nếu sau này bầy tôi của Lê Hoàn cũng bắt chước làm theo thói xấu ấy, thì vua Tống lấy gì mà chế trị được? Than ôi! Làm vua mà không nắm được quyền đánh dẹp, thì kẻ loạn thần lấy gì để làm răn chừa! Sử Cương mục (tục biên) , ở trên, chép Lê Hoàn đưa lễ vào cống, đến dưới, chép ban chiếu phong cho tước vương. Thì ra hai bên đều trọng về lợi, chứ không trọng về nghĩa nữa. Công đạo bởi đâu mà giãi tỏ được ru?
Giáp Ngọ, năm Ứng Thiên thứ 1 (994). (Tống, năm Thuần Hóa thứ 5).
Tháng giêng, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Sai nha hiệu Phí Sùng Đức đem biếu sản vật địa phương.
Chế Cai nước Chiêm Thành vào chầu.
Trước đây, chúa Chàm288 sai Chế Đông đến dâng sản vật địa phương. Nhà vua trách là vô lễ, gạt đi không nhận, chúa Chàm289 sợ, sai cháu là Chế Cai vào chầu.
Ất Mùi, năm thứ 2 (995). (Tống, năm Chí Đạo thứ 1).
Bính Thân, năm thứ 3 (996). (Tống, năm Chí Đạo thứ 2).
Tháng 2, mùa xuân. Sai sứ sang nhà Tống.
Bấy giờ nhà vua dong túng dân nơi biên giới lấn cướp bờ cõi nhà Tống. Chuyển vận sứ Quảng Tây lộ là Trương Quan, và binh mã giám áp ở trấn Như Hồng là Vệ Chiêu Mỹ đem việc đó tâu về triều, vua Tống ý muốn vỗ về cho yên, nên cũng bỏ qua không hỏi đến. Trương Quan lại dâng thư nói rằng nhà vua290 bị họ Đinh xua đuổi, thu nhặt đám quân còn sót, ra ở nơi hải đảo, cướp bóc để độ thân, nay đã mất rồi. Vua Tống sai thái thường thừa là Trần Sĩ Long làm Thái phóng sứ, sang dò hư thực, mới biết những lời Trương Quan đều dối trá cả, bèn xuống chiếu nghị tội bọn Trương Quang. Lại bổ Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây Chuyển vận sứ, và sai Hải khang úy là Lý Kiến Trung đem chiếu thư sang ta.
Trước đây, bọn Văn Dũng, dân trấn Triều Dương, phạm tội291 , trốn sang trấn Như Tích thuộc Khâm Châu bên Tống, được trấn tướng nhà Tống là Hoàng Lệnh Đức chứa chấp. Nha vua sai trấn tướng ta ở Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt không được. Đến đây, Nghiêu Tẩu (người Tống) đến trấn
Như Tích, hỏi biết rõ đầu đuôi về việc chứa giấu phạm nhân, mới đem giao trả ta tất cả trai, gái, già trẻ hơn trăm người mà trước đây Hoàng Lệnh Đức đã chứa chấp. Nhà vua lại bắt hai mươi bảy người Đãn không biết tiếng Trung Quốc đưa sang Quảng Tây giao cho Tống. Nhân tiện sai sứ sang tạ ơn Tống và nói đến việc đã bắt được giặc biển đưa sang rồi. Lại hứa hẹn sẽ răn cấm dân các miền khê động không được khuấy rối nữa.
Lời chua – Như Hồng và Như Tích: Sách Thanh Nhất thống chí chép: trấn Như Hồng và trấn Như Tích đều ở về phía tây Khâm Châu, thuộc phủ Liêm Châu, tỉnh Quảng Đông.
Triều Dương: Tên trấn. Xem Lý Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 14 (Chb. II, 23).
Người Đãn (Hồ di Đãn Man): Theo sách Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, người Đãn là giống người lấy thuyền làm nhà, coi ở nước như ở trên cạn, lênh đênh sống trên sông biển.
Sứ nhà Tống sang ban sắc mệnh.
Nhà Tống lại sai Lý Nhược Chuyết đem tờ chiếu và đai ngọc sang ban cho. Khi sứ thần đã đến nơi, nhà vua ra đón ở ngoài đô thành, có ý ngạo mạn coi thường, không thi lễ, bảo Nhược Chuyết rằng: “Trước đây xảy việc cướp trấn Như Hồng là do giặc ở ngoài biên giới, chẳng hay hoàng đế có biết cho không? Giả sử Giao Châu chúng tôi nổi lên chống lại, thì trước hết kéo sang Quảng Châu, rồi vào mọi quận ở Mân Châu, chứ có khi nào chỉ nhằm một trấn Như Hồng mà thôi?”. Nhược Chuyết ung dung nói: “Túc hạ xuất thân từ một nha tướng, được hoàng đế trao cho tiết việt, hết lòng cung thuận, hợp với lễ nghĩa, tất không có ý gì khác. Các đại thần bên tôi đều cho rằng giặc biển khuấy rối, một mình Giao Châu không thể trị nổi, xin đem quân ra hội tiễu, để dứt hẳng mối lo về sau. Nhưng hoàng đế lại lo Giao Châu không biết rõ được ý chí triều đình, lỡ sinh ra sợ hãi chăng, cho nên không đem quân sang hội tiễu nữa”. Nhà vua ngạc nhiên nói: “Giặc biển xâm phạm biên giới, đó là lỗi tại người bầy tôi có trách nhiệm giữ biên cương. Từ nay xin kính theo giáo hóa triều đình, quét sạch chướng khí ngoài biển”292 . Nói đoạn, cúi đầu tạ lỗi.
Lời chua – Giao Châu: Xem thuộc Đường, Cao tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tb. IV, 18).
Quảng Châu: Xem Lương, năm Đại Đồng thứ 7 (Tb. IV, 2).
Mân Châu: Bây giờ thuộc Phúc Kiến thống bộ.
Đinh Dậu, năm thứ 4 (997). (Tống, năm Chí Đạo thứ 3).
Tháng 4, mùa hạ. Nhà Tống gia phong nhà vua tước Nam Bình vương.
Tống Chân tông lên ngôi, gia phong nhà vua tước Nam Bình vương. Trước đây, sứ Tống đến, thường nói về việc cống muối rồi dây dưa đến cả việc thuế khóa. Chân Tông nghe biết chuyện ấy, nên đến đây, chỉ sai viên quan ở biên cương triệu người sang để trao cho sắc chỉ, chứ không chuyên sai sứ thần mang sang như trước nữa.
Sai sứ sang nhà Tống.
Năm ấy (Đinh Dậu, 997), nước Chiêm Thành cướp nơi biên giới. Nhà vua đi đánh, quân Chiêm thua chạy, mới đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống, nhân tiện dâng biểu đại lược nói: “Giao Châu chúng tôi giáp giới với Chiêm Thành, trong một hai năm nay, Chiêm Thành thường khuấy rối miền lân cận, cướp nhà thuế hộ, xâm lấn lương dân; nước tôi thường phải dùng đến binh khí để ngăn cản chúng, nên mới đến nỗi trễ việc triều cống, thật là trái phép tắc của triều đình”. Nhà Tống đáp lại một cách ưu hậu, ban cho đai ngọc, áo giáp và ngựa.
Tháng 7, mùa thu. Nhà vua đi đánh giặc ở Đỗ Động, bắt được đồ dđảng nó đem về.
Có thủy tai lớn.
Mậu Tuất, năm thứ 5 (998). (Tống, Chân Tông, năm Hàm Bình thứ 1).
Tháng 3, mùa xuân. Động đất.
Mồng 1, tháng 5, mùa hạ. Nhật thực. Suốt từ tháng này đến tháng 6, không mưa.
Mồng 1, tháng 10, mùa đông. Nhật thực.
Kỷ Hợi, năm thứ 6 (999). (Tống, năm Hàm Bình thứ 2).
Nhà vua thân đi đánh và dẹp yên được Hà Động.
Bốn mươi chín động vùng Hà Động đều dẹp yên cả. Từ đấy các châu, các động đâu đấy đều quy phục.
Lời chua – Hà Động: tức động Hà Man; bây giờ là đất huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
Canh Tí, năm thứ 7 (1000). (Tống, năm Hàm Bình thứ 3).
Bọn Trịnh Hàng ở Phong Châu làm loạn. Nhà vua xuống chiếu sai đi đánh.
Bọn Trịnh Hàng làm loạn, nhà vua điều khiển quân sĩ đi đánh. Trịnh Hàng chạy sang núi Tản Viên.
Lời chua – Phong Châu: X. Hùng Vương (Tb. I, 1).
Tản Viên: Tên núi. Ở huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Hình thế núi cao vọi như cái tán, nên gọi là Tản Viên.
Sai tướng chia nhau đi tuần các nơi biên thùy.
Sai Từ Mục đi tuần cõi Hà Tây, Ngô Tử An đi tuần cõi phía bắc, để dò xét tình hình biên giới.
Tân Sửu, năm thứ 8 (1001). (Tống, năm Hàm Bình thứ 4). Vua nhà Đinh trước là Toàn mất ở Cử Long.
Nhà vua đi đánh Cử Long: Vệ vương Toàn theo đi. Bấy giờ quân giặc thấy nhà vua, chúng giương cung, chĩa tên, toan bắn, chiếc tên rơi xuống; chúng lại giương cung, dây cung đứt. Chúng sợ, rút lui. Nhà vua đi thuyền ven sông đuổi theo. Quân giặc ở hai bên bờ đánh khép lại. Quan quân bị hãm ở sông. Vệ vương Toàn trúng phải mũi tên bay, mất tại trận. Nhà vua kêu trời ba tiếng, rồi thân ra đốc chiến: quân giặc thua.
Lời phê – Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong? Còn việc cất tiếng kêu trời, gieo mình xuống đất, chỉ là một ngón giả trá. Thật khó che đậy được công luận nghìn thu. Lời chua – Cử Long: Tên dân tộc Mán. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là mán Cử Long, đến nhà Lý diệt được. Năm Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện Lạc Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469), đổi lại Cẩm Thủy. Bây giờ vẫn theo tên cũ, thuộc phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Nhâm Dần, năm thứ 9 (1002). (Tống, năm Hàm Bình thứ 5).
Tháng 3, mùa xuân. Đặt luật lệ pháp lệnh.
Lựa tuyển chư quân.
Lựa tuyển trong dân đinh lấy những người khỏe mạnh sung bổ vào các đội ngũ. Chia tướng hiệu làm hai ban. Chế mấy nghìn chiếc mũ đâu mâu, ban phát cho sáu quận.
Lời chua – Lộ, phủ, châu: Thay đổi và xếp đặt thế nào không rõ.
Quý Mão, năm thứ 10 (1003). (Tống, năm Hàm Bình thứ 6).
Nhà vua đi Hoan Châu, đào sông Đa Cái293 .
Bấy giờ đào sông Đa Cái, có kẻ ta oán nổi lên làm phản, nhà vua sai bắt chém đem rao đi khắp nơi để mọi người biết. Đầu mục dân thành Nhật Hiệu là bọn Hoàng Khánh Tập đem gia quyến của chúng hơn bốn trăm năm mươi người trốn sang Khâm Châu bên Tống. Người Tống yên ủi và bảo trở về. Bọn Khánh Tập sợ tội, không dám về, cứ trú ở nơi bờ biển.
Lời chua – Hoan Châu: Tức Nghệ An. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 21).
Đa Cái: Tên xã. Bây giờ là xã Hương Cái, huyện Hưng Nguyên. Theo sách Nghệ An chí, Hương Cái cảng ở phía tây nam huyện Hưng Nguyên.
Thành Nhật Hiệu: Sách An nam chí chép là trường294 Hiệu Thành. Nay không khảo được.
Khâm Châu: Bây giờ thuộc phủ Liêm Châu, tỉnh Quảng Đông nhà Thanh. Theo sách Giao Chỉ di biên , Hoàng Khánh Tập vào ở tại thôn Ô Thổ bên sông Dũng bộ thuộc địa phận Khâm Châu.
Giáp Thìn, năm thứ 11 (1004). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 1).
Tháng giêng, mùa xuân. Lập Nam Phong vương Long Việt làm Thái tử.
Trước đây, con trưởng là Kình Thiên đại vương Long Thâu mất, Ngân Tích, theo thứ tự, đáng được lập. Bấy giờ Long Đĩnh cầu xin làm Thái tử, ý nhà vua muốn cho; đình thần bàn rằng không lập con trưởng mà lập con thứ thì không hợp lễ; thành thử lại thôi. Đến đây, lập Long Việt làm Thái tử, gia phong Đông Thành vương Ngân Tích và Khai Minh vương Long Đĩnh làm đại vương.
Sai Hành quân vương Minh Đề sang bên Tống.
Nhà vua sai Minh Đề, lấy tư cách là quyền chức Thứ sử Hoan Châu đi thăm hỏi nhà Tống. Minh Đề đến Biện Kinh295 , khẩn cầu ban cho ân điển. Vua Tống y cho, vời vào tiện điện296 vỗ về hỏi han, ban thưởng rất hậu, và phong làm Kim tử vinh lộc đại phu Kiểm hiệu Thái úy Hoan Châu thứ sử.
Lời chua – Minh Đề: Tức là Long Đề, con thứ hai Lê Đại Hành.
Xem đánh cá ở sông Đại Hoàng.
Lời chua – Sông Đại Hoàng: Bây giờ là con sông xã Đại Hữu huyện Gia Viễn (Ninh Bình).
Ất Tị, năm thứ 12 (1005). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 2).
Tháng 3, mùa xuân. Nhà vua mất.
Nhà vua khi mới mất, gọi là Đại Hành297 hoàng đế, rồi cứ để làm miếu hiệu, không đổi lại; ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi.
Lời chua – Hán thư chép: Cao đế (nhà Hán) mới mất, triều thần gọi là Đại Hành hoàng đế. Tôn Dục nhà Nguỵ nói: “Phép đặt tên thuỵ, lúc sinh thời làm được sự nghiệp to tát hay là nhỏ mọn thì lúc mất tên thuỵ cũng theo như vậy. Khi tiên quân chưa có tên thuỵ, mà tự quân (vua nối ngôi) đã lên ngôi, kẻ thần hạ xưng hô nên có phân biệt; vì vậy gọi là Đại Hành”. Hiệu gọi: “Đại Hành” có lẽ gốc từ đấy.
Táng ở Sơn Lăng Hoa Lư.
Tháng 10, mùa đông. Thái tử Long Việt lên ngôi.
Trước đó, Đông Thành vương Ngân Tích, Trung Quốc vương Long Kính và Khai Minh vương Long Đĩnh đều làm loạn; Thái tử không lên ngôi được, cầm cự nhau đến 8 tháng, trong nước không ai làm chủ. Đến đây, Long Việt mới lên ngôi; Ngân Tích phải chạy, bị người châu Thạch Hà giết chết.
Lời chua – Thạch Hà: Tên Châu. Nhà Đinh, nhà Lê gọi là châu Thạch Hà; nhà Lý đổi làm huyện Thạch Hà; nhà Trần đổi gọi châu Nhật Nam; hồi thuộc Minh gọi là châu Nam Tỉnh. Về sau, Lê lại gọi là huyện Thạch Hà. Bây giờ là huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Khai Minh vương Long Đĩnh giết vua Long Việt mà tự lập.
Vua Long Việt lên ngôi được 3 ngày; Long Đĩnh sai kẻ trộm trèo tường vào trong cung, giết chết, rồi cướp ngôi, tự lập làm vua; truy đặt tên thuỵ vua Long Việt là Trung Tông hoàng đế.
Dùng Lý Công Uẩn làm Tứ Sương quân phó chỉ huy sứ.
Khi vua Long Việt bị giết, bầy tôi đều chạy trốn cả, chỉ có điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm thây nhà vua mà khóc. Long Đĩnh cho là trung nghĩa, cất lên làm chức này.
Truy tôn mẹ làm Hưng Quốc quảng thánh Hoàng thái hậu.
Nhà vua đã cướp được ngôi, xưng tôn hiệu là Khai Thiên ứng vận thánh văn thần vũ tắc thiên sùng đạo đại thắng minh quang hiếu hoàng đế: truy tôn mẹ làm Hoàng thái hậu.
Lời chua – Thái Hậu: Con gái quan Chi hậu tên là Diệu, không rõ họ là gì.
Lập bốn Hoàng hậu.
Nhà vua tự cầm quân đi đánh Ngự bắc vương Long Ngận và Trung Quốc vương Long Kính, dẹp yên được cả.
Bấy giờ nhà vua đã lên ngôi, Long Ngận và Long Kính giữ xã Phù Lan để chống lại. Nhà vua thân đi đánh: hai vương ấy đóng chặt thành cố thủ. Vây đến vài tháng, trong thành cạn lương; Long Ngận bắt Long Kính đem dâng nộp. Nhà vua sai chém Long Kính và tha tội cho Long Ngận. Nhân tiện, đem quân đi đánh Ngự Man vương Long Đinh ở Phong Châu; Long Đinh phải đầu hàng. Từ đó các vương đều chịu phục cả.
Lời chua – Phù Lan: Xem năm Hưng thống thứ 4 (Chb. I, 27).
Phong Châu: Xem Hùng Vương (Tb. I, 1).
Đặt Đằng Châu lên làm phủ Thái Bình.
Nhân dịp đem quân về đến Đằng Châu, nhà vua sai đặt Đằng Châu lên làm phủ.
Lời chua – Đằng Châu: Xem ngang với Tống, Thái tổ, năm Kiền Đức thứ 4 (Tb. V, 28).
Thân đi đánh mán Cử Long.
Trước đây, nhà vua đóng ở xã Phù Lan, có tin chạy trạm đến tâu rằng mán Cử Long vào cướp, đã kéo đến cửa biển Thần Đầu. Khi đã dẹp yên Phong Châu, rút quân về đến sông Tham, nhà vua liền vào Ái Châu để đánh giặc mán Cử Long.
Lời chua – Cử Long: Tên một dân tộc Mán. Xem Lê Đại Hành năm Ứng Thiên thứ 8 (Chb. I, 34).
Cửa Thần Đầu: Ở địa giới huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Nhà Lê đổi là Thần Phù; bây giờ là cửa Chính Đại.
Tham: Tên sông, chưa rõ ở đâu.
Ái Châu: Tức Thanh Hóa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 20).
Bính Ngọ, năm thứ 13 (1006). (Đế Long Đĩnh vẫn theo niên hiệu cũ: năm Ứng Thiên thứ 13. – Tống, năm Cảnh Đức thứ 3).
Tháng 2, mùa xuân. Lập con là Sạ làm Khai phong vương; con nuôi là Thiệu Lý làm Sở vương, Thiệu Hưng làm Hán vương.
Lời cẩn án – Long Đĩnh giết anh mà tự lập, hoang dâm thành bệnh, nằm mà coi chầu, nhân gọi là Ngọa Triều. Sử cũ chép là “Ngọa Triều hoàng đế”, có lẽ là theo tên gọi thời bấy giờ, chứ không phải là tên thuỵ. Chép vậy thật là trái thường quá lắm! Này, đã không có tên thuỵ, thì cứ chép thẳng tên thực, đó là biến lệ của sử Cương mục (Trung Quốc). Nay đổi lại, chép là “Đế Long Đĩnh” để cho hợp với ý nghĩa và thể lệ của Cương mục dẫn trên. Đặt lại quan chế và triều phục.
Đặt lại quan chế văn vũ và triều phục, đều theo như kiểu mẫu của nhà Tống.
Lời chua – Triều phục nhà Tống thế này: có ba hạng mũ: 1) Mũ tiến hiền, là phẩm phục hàng nhất phẩm và nhị phẩm; 2) Mũ điêu thiền là phẩm phục hàng tam phẩm các ti, hàng tam phẩm ngự sử đài, và hàng ngũ phẩm hai sảnh; 3) Mũ giải trãi, là phẩm phục từ tứ phẩm đến lục phẩm. Công khanh trở lên mặc màu tía; ngũ phẩm trở lên mặc màu đỏ; thất phẩm trở lên mặc màu lục298 ; cửu phẩm trở lên mặc màu xanh.
Tháng 6, mùa hạ. Sứ nhà Tống sang.
Trước đây, các vương tranh nhau nối ngôi, trong nước rối loạn. Vua Tống nghe tin, sai Tri châu ở Quảng Châu là Lăng Sách cùng với An phủ sứ nơi duyên biên là Thiệu Việp tùy tiện liệu tính công việc rồi tâu bày. Bọn Lăng Sách dâng thư nói rằng: cứ như lời bọn Hoàng Khánh Tập, người Giao Chỉ, do nhà đương cục Liêm Châu đưa đến, thì các con Nam Bình vương299 đến phân tán đóng giữ các trại, các sách, quan lại rời rạc chia lìa, nhân dân lo sợ. Vậy xin đem quân sang đánh dẹp; Khánh Tập xin làm tiên phong hẹn ngày lấy được. Nếu triều đình y theo lời thỉnh cầu đó, xin dùng đồn binh ở các châu Quảng Nam300 rồi thêm vào đấy 5.000 quân tinh nhuệ ở Kinh301 Hồ302 , thủy bộ cùng tiến sang thì có thể lập tức bình định được. Song, vua Tống cho rằng họ Lê bấy lâu vẫn giữ lễ cống, nên không nỡ đem quân sang đánh, xuống chiếu bảo bọn Lăng Sách phải chiêu an vỗ về như cũ, cốt khiến cho yên. Rồi sai Thiệu Việp đem thư sang hiểu dụ. Nhà vua303 sợ, xin sai em sang cống.
Lời chua – Quảng Nam: Theo sách Thanh Nhất thống chí , tỉnh Quảng Đông về đời Ngũ Đại (907-959), là nước Nam Hán; nhà Tống đặt làm Quảng Nam đông lộ và
Quảng Nam tây lộ; nhà Nguyên gộp lại đặt ra đạo Quảng Đông; nhà Minh đổi làm tỉnh Quảng Đông; nhà Thanh cũng để tên như thế.
Quảng Châu: Xem Lương, năm Đại Đồng thứ 7 (Tb. IV, 2).
Minh Đề từ Tống trở về.
Từ cuối niên hiệu Ứng Thiên (1004), Minh Đề vâng mạng sang Tống, vì trong nước rối loạn, không về được, phải đóng lại Quảng Châu. Đến đây, vua Tống xuống chiếu bảo An phủ sứ là Thiệu Việp cấp người và thuyền để cho về. Thiệu Việp nhân dịp này, tính chiếm lấy nước ta, bèn dâng bức địa đồ thuỷ lục từ Ung Châu đến Giao Châu. Vua Tống đưa bức địa đồ ấy cho các cận thần xem và bảo: Giao Châu là nơi lam sơn chướng khí, nếu đem quân sang đánh, chắc sẽ tổn hại nhiều. Vậy ta chỉ nên cẩn thận giữ lấy đất đai của ông cha”. Sự toan tính ấy vì thế mới thôi.
Lời chua – Ung Châu: Xem Đinh Đế Toàn, năm Thái Bình thứ 11 (Chbi. I, 14).
Giao Châu: Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều lộ thứ 1 (Tb. IV, 20).
Đinh Mùi, năm thứ 14 (1007). (Tống, năm Cảnh Đức thứ 4).
Mùa xuân. Sai em là Minh Sưởng sang nhà Tống.
Nhà vua sai Minh Sưởng và chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh304 và kinh sách đại tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả. Nhà vua lại sai sứ đem biếu con tê đã nuôi quen. Vua Tống cho rằng con tê từ xa đến không quen thủy thổ, nên đợi khi sứ giả ta về, đem thả ra ngoài bãi biển. Nhà vua (Long Đĩnh) lại dâng biểu xin áo giáp và mũ trụ trang sức bằng vàng, đều được vua Tống ưng cho. Lại xin cho ta sang “hỗ thị” ở Ung Châu, mua bán đổi chác với người Tống; nhưng vua Tống không nghe, chỉ cho mua bán đổi chác ở Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi.
Lời chua – Đại Tạng: Kinh nhà Phật.
Hỗ thị: Đem chỗ có đến chỗ không đổi chác lẫn nhau ở chợ.
Liêm Châu: Tức Thái Bình quân. Xem Lê Đại Hành năm Hưng Thống thứ 2 (Chb. I, 25-26).
Trấn Như Hồng: Xem Lê Đại Hành năm Ứng Thiên thứ 3 (Chb. I, 31).
Tháng 8, mùa thu. Sứ nhà Tống sang.
Vua Tống phong nhà vua làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, cho tên là Chí Trung. Theo như phép cũ, khi mới trao quyền ở Giao Châu thì chỉ ban tiết việt, chứ chưa phong tước vương. Đến Tống Chân Tông (998-1022) cho rằng Giao Châu ở xa, phải có ân điển triều đình mới có thể trấn phục được, nên đặc cách sai đúc ấn “Giao Chỉ quận vương” đem sang cho; lại truy phong Đại Hành hoàng đế làm Nam Việt vương, và sửa lễ tế viếng.
221 Xem Tb.IV, 29.
222 Nghệ An.
223 Một khu vực hành chính xưa ở miền rừng núi, cũng như các bản, các trại, v.v…
224 Một khu vực hành chính xưa ở miền rừng núi, cũng như các bản, các trại, v.v…
225 Một khu vực hành chính xưa ở miền rừng núi, cũng như các bản, các trại, v.v…
226Toàn thư và Sử ký đều chép Dự là chú của Đinh Bộ Lĩnh và, về đời thơ ấu của Đinh Bộ Lĩnh, có một vài chi tiết hơi khác, như: Đàm thị đem con đến cư trú ở bên đền thờ thần nơi động núi, và chiếc cầu mà Bộ Lĩnh chạy qua đó là cầu “Nương Loan” thôn Đàm Gia (Tth, 1, 1-2). Lại như: “Đinh Tiên Hoàng, khi còn bé, chơi đùa với các mục đồng, được chúng tôn làm vua. Tiên Hoàng lấy làm sung sướng, rình lúc mẹ đi vắng, cầm đầu các trẻ chăn trâu, về nhà bắt trộm lợn của mẹ, đem làm thịt để khao chúng. Mẹ về, sợ rằng “con dại cái mang”, mới nói chuyện với người chú (của Bộ Lĩnh) là Đinh Dự. Dự nổi giận, vác dao ra đồng lùng tìm cháu. Bấy giờ Tiên Hoàng và các nhi đồng, hàng nào toán ấy, đang ăn uống. Bọn Điền và Bặc xông ra chống chọi với Dự để cho Tiên Hoàng thừa cơ chạy trốn. Dự đuổi đến bên sông, thấy con rồng vàng vươn mình ngang sông làm như cầu phao để cho Tiên Hoàng vượt qua. Dự đâm sợ; ném bỏ dao, đi về. Tiên Hoàng liền chạy sang Giao Thủy (nay thuộc Nam Định), theo phường chài làm nghề chài lưới. Việc bắt được ngọc khuê là ở lúc đi chài lưới này…”. (Sk.1, 2).
227 Tên hiệu đáng tôn kính để gọi nhà vua khi còn sống, phân biệt với miếu hiệu là tên hiệu đặt cho nhà vua khi đã chết, thờ cúng ở nhà thái miếu (xem thêm chú giải ở Tiền biên Tng6).
228 Đặt niên hiệu là Thái Bình (970-979).
229 Chức quan coi việc hình ngục.
230 Bấy giờ trong nước chia làm mười đạo. Thập đạo tướng quân tương tự như Tổng tư lệnh quân đội bây giờ.
231 Nay thuộc tỉnh Hà Nam. – Toàn thư Bản kỷ 1 , 13a chép Lê Hoàn người Ái Châu. Đại Việt sử ký Bản kỷ 1 , 18b cũng nêu theo như thế, nhưng đến tờ 19b có đưa ra lời nhận xét thế này: “Đại Hành là người Bảo Thái huyện Thanh Liêm, chứ không phải là người Ái Châu. Sử cũ (cựu biên) chép lầm”.
232 Quan đứng đầu triều.
233 Các quan chức phong riêng cho các nhà sư, đạo sĩ.
234 Các quan chức phong riêng cho các nhà sư, đạo sĩ.
235 Xem chú giải ở Tb.II, 16.
236 Xem chú giải ở Tb.I, 14-15.
237 Chỉ Đinh Liễn.
238 Chỉ Đinh Tiên Hoàng.
239 Nguyên văn là “trật dĩ duy sư”. Đây dịch theo nghĩa ở hào “Cửu nhị”, quẻ “Sư” trong kinh Dịch .
240 Nghĩa là hằng năm phải nộp một phần năm (1/5) trong số binh mã hiện có để đóng góp vào việc chinh phạt. Theo Tống sử Thực hóa chí , mỗi tỉ suất cứ hai binh thì một mã, như binh có 6.800 người thì ngựa phải 3.400 con. Hằng năm, phải lấy ra một phần năm (1/5) đặt làm ngạch “thượng phiên” để cung cấp về chinh dịch. – Nguyên văn là “trù chi tỉnh phú”. Cũng có thể theo nghĩa trong sách Chu Lễ mà dịch là: được kinh lý đất đai trong nước mình mà bắt nộp thuế những số ruộng đất phì nhiêu.
241 Chỉ việc Tống phong Đinh Liễn làm Giao Chỉ quận vương.
242 Một bộ sách có giá trị, tác giả là Vương Xứng đời Tống, toàn bộ 130 quyển, trình bày công việc chín triều vua nhà Bắc Tống (960- 1126).
243 Một chức quan phục vụ ở trong cung dùng để sai bảo, truyền lệnh.
244 Chức quan trông coi về giấy tờ, thường gọi là thư lại.
245 Nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
246 Chữ “sách” đây là sách văn, không phải là quyển sách. Thời Tự Đức (1848-1883), trong bộ có tư cho các tỉnh làm một bản sách văn ghi rõ lịch sử trong tỉnh; khi làm xong sách văn ấy, đệ trình vào bộ, tỉnh nào cũng phải đều rõ sách văn của tỉnh ấy. Thí dụ: Ninh Bình tỉnh sư Hàn Lâm viện sách , hoặc Hà Nội tỉnh sư Hàn lâm viện sách , v.v… Cương mục viết tắt là Ninh Bình sách hoặc Hà Nội sách …
247 Chức quan đời Đinh, trông coi quân đội ở bên ngoài.
248 Tên là Đánh, em Chu Vũ vương. Khi Vũ vương mất rồi, con là Thành Vương còn thơ ấu, Chu công phải tạm cầm chính quền, sắp xếp mọi việc, cho đến khi Thành Vương khôn lớn thì trao trả.
249 Con nít, đây chỉ Đinh Toàn.
250 Chỉ Đinh Tiên Hoàng.
251 Chỉ Đinh Toàn.
252 Thanh Hoá.
253 Nay thuộc tỉnh Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
254 Nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
255 Nay là hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Dương.
256 Nay là xã Đường Lâm thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.
257 Nay là huyện Can Lộc. Can Lộc và Thạch Hà đều thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
258 Phạm Cự Lạng người Chí Linh (Hải Dương); ông nội là Chiêm, làm đồng giáp tướng quân đời Ngô Vương Quyền; cha là Man, làm tham chính đô đốc đời Ngô Nam Tấn; anh là Hạp, làm vệ úy đời Đinh Tiên Hoàng, cùng với Đinh Điền và Nguyễn Bặc dấy quân đánh Lê Hoàn, nhưng thất bại (theo Nguyễn Nghiễm trong Đại Việt sử ký, Bản kỷ , 1, 14).
259 Chỉ việc khuyên mời Lê Hoàn lên ngôi vua.
260 Quy luật xoay vần, hết trị đến loạn, hết dở đến hay, theo tư tưởng xưa.
261 Đời Ngũ Đại (907-959), Triệu Khuông Dận (tên Tống Thái Tổ) khi đem quân đóng ở Trần Kiều, say rượu, nằm ngủ, qua sáng hôm sau, được các tướng suy tôn làm thiên tử. Khuông Dận chưa kịp đáp ứng, thì họ khoác luôn cho chiếc hoàng bào, tung hô vạn tuế. Việc này giống việc Dương hậu đem áo long cổn khoác vào mình Lê Hoàn. Còn chuyện sau đây của Triệu Khuông Dận thì giống chuyện Lý Công Uẩn khi sắp lên thay nhà Lê có bài sấm ở thân cây gạo (x. Chb.II, 4-5). Bấy giờ Khuông Dận còn làm quan với nhà Chu (951-959). Một hôm, Chu Thế Tông tìm trong hòm đựng văn thư, bắt được một mảnh gỗ dài 3 thước, trên có chữ “Kiểm điểm tác thiên tử” (quan kiểm điểm sẽ làm vua). Lúc ấy, Trương Vĩnh Đức đương giữ chức Kiểm điêm, Thế Tông lấy làm ngờ, bãi chức Trương Vĩnh Đức mà cho Triệu Khuông Dận làm Kiểm điểm. Được ít lâu quân sĩ lập Khuông Dận làm vua.
262 Dòng đây là theo lối viết sách nho xưa: từ bên phải sang bên trái, và từ trên xuống dưới. Viết ở “dưới dòng” tức là chua thành hai dòng chữ nhỏ dưới dòng chính, tục gọi là chua “lưỡng cước”.
263 Người đời Tấn (265-420), tên tự là Nguyên Tử. Khi Bắc phạt, thua trận, quay về Kiến Khang (nay ở phía nam Nam Kinh), phế bỏ Đế Dịch, lập Giản Văn đế, định làm việc thoán đoạt, nhưng rồi bị bệnh chết.
260 Ý nói: Phương Nam khí nóng nung nấu, như lửa thiêu cáy, như hơi nước sôi; biển Nam khí độc bao bọc, trên thì mây mù phủ kín, dưới thì hơi đá bốc ra. Ta sẽ đem ơn đức của Nghiêu Thuấn là hai vị thánh quân thời xưa của Trung Quốc mà giúp đỡ cho. Vì Đế Nghiêu có đức độ thánh nhân, dân chúng nương nhờ không khác gì cây cối nhờ vào mưa móc; Đế Thuấn thay Đế Nghiêu trị vì, gẩy đàn năm dây, hát bài Nam phong: “Gió nam mát mẻ, có thể cởi mở được lòng buồn nản của dân ta, gió nam hợp thời, có thể làm cho dân ta được giàu của cải”. Bức thư của vua Tống về đoạn này, bằng giọng đạo đức giả, nói sẽ đem văn minh Trung Quốc sang khai hóa cho dân Giao Chỉ.
261 Chỉ Lê Hoàn.
262 Chỉ Lê Hoàn.
263 Xem chú giải ở Chb.I, 3.
264 Thành và hào để phòng thủ của một nước.
265 Nhà thờ tổ tiên các vua chúa của một nước.
266 Nơi nhà vua nghỉ và ngủ.
267 Triệu Đà làm chức uý.
268 Triều Tống, Lý Giác là người Tống, nên gọi Tống là bản triều.
269 Thửa ruộng chính thiên tử tự cày lấy, hoa lợi sẽ dùng vào việc cúng tế.
270 Tục gọi núi Đọi.
271 Nay thuộc tỉnh Hà Nam.
272 Long Việt, Long Thâu và Ngân Tích đều là con Lê Hoàn. Sách Cương mục này, ở phần Cương , chép “Lập Long Việt làm Nam Phong vương”, ở phần Mục lại chép thêm cả việc phong cho con trưởng và con thứ mà đều chép là phong. Vì, theo thể lệ chép sử đời phong kiến, đối với người nào sau này có nhiều phần quan hệ, thì chép một cách đặc biệt hơn người khác để có phân biệt. Long Việt sau này được lập làm thái tử và nối ngôi vua, nên ở đây, Cương mục mới riêng nêu lên ở phần Cương và chép là “lập”.
273 Một chức quan to, dưới hàng tam công. Chỉ vua chư hầu nào có công đức được triều đình kính trọng, mới được phong chức này.
274 Quân thủy với các thuyền chiến.
275 Tức châu Trường Yên.
276 Một niên hiệu của Tống Thái Tông, từ 976 đến 983.
277 Một niên hiệu của Tống Chân Tông, từ 998 đến 1003.
278 Còn có tên nữa là Minh Đề.
279 Nay Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
280 Nay là huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.
281 Nay là huyện Sóc Sơn (Hà Nội) và một phần của huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc).
282 Nay gồm huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh) và huyện Gia Lâm, Đông Anh (Hà Nội).
283 Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
284 Nay hợp nhất với huyện Từ Sơn thành huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh).
285 Sông Cà Lồ.
286 Nay huyện Tiên Lữ thuộc tỉnh Hưng Yên.
287 Nay gồm huyện Ninh Giang (Hải Dương) và huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng).
288 Tức Chiêm Thành.
289 Chỉ Chiêm Thành.
290 Chỉ Lê Đại Hành.
291 Tội làm loạn, giết người.
292 Chỉ bóng về giặc giã.
293 Nguyên văn là “Đa Cái cảng”.
294 Trường sở.
295 Kinh đô của nhà Bắc Tống (960-1126).
296 Nhà riêng để nghỉ ngơi của vua chúa xưa.
297 Theo chế độ phong kiến xưa, trong thời gian quá độ “vua trước mới chết chưa có tên thuỵ, vua sau đã lên ngôi”, quần thần thường dùng danh từ chung chung mà gọi vua mới chết ấy là Đại Hành hoàng đế để cho phân biệt với vua mới. Về danh từ “Đại Hành”, có hai nghĩa: 1- Vua đã đi dài, không trở về nữa; 2- Vua có đức hạnh to, tất phải được danh lớn. Về trường hợp Lê Hoàn này đáng lẽ, theo công thức phong kiến, chỉ gọi tạm là Đại Hành trong một thời gian như trên đã nói, nhưng vì không có tên thuỵ và tên miếu hiệu, nên cứ phải gọi là “Đại Hành” mãi mãi như trăm nghìn vua khác khi mới chết cũng gọi là “Đại Hành” (xem thêm ” Lời chua ” của Cương mục ).
298 Màu xanh lá cây.
299 Chỉ Lê Đại Hành.
300 Xem ” Lời chua ” ở sau của Cương mục .
301 Giang Lăng phủ đời Tống, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
302 Hồ Châu đời Tống, thuộc tỉnh Chiết Giang.
303 Chỉ Lê Ngọa Triều.
304 Chín kinh sách nhà nho. Có hai thuyết. Thuyết thứ nhất, Cửu kinh gồm có: 1) Chu lễ; 2) Nghi lễ; 3) Lễ ký; 4) Tả truyện; 5) Công dương; 6) Cốc lương; 7) Dịch; 8) Thi; 9) Thư; Thuyết thứ hai: 1) Dịch; 2) Thi; 3) Thư; 4) Lễ; 5) Xuân thu; 6) Hiếu kinh; 7) Luân ngữ; 8) Mạnh tử; 9) Chu lễ;