K h â m Đ ị n h V i ệ t S ử T h ô n g G i á m C ư ơ n g M ụ c
Chính Biên
Quyển thứ XIV
Từ tháng giêng đến tháng 12, Đinh Mùi (1427), Bình Định vương Lê Lợi năm thứ 10, gồm một năm.
Năm Đinh Mùi (1427). (Bình Định vương năm thứ 10. Minh, năm Tuyên Đức thứ 2).
Tháng giêng, mùa xuân. Bình Định vương đóng quân ở bên sông Nhị Hà, phân phái các tướng tiến sát đến thành Đông Quan để đánh thành này.
Vương tiến quân đóng ở bờ bên bắc sông Nhị Hà: đồn lũy đối ngang với thành Đông Quan. Vương sai bọn Trịnh Khả đóng quân ở phía cửa Đông, Đinh Lễ đóng quân ở phía cửa Nam, bọn Lê Cực đóng quân ở phía cửa Tây, Lý Triện đóng quân ở phía cửa Bắc: tất cả đều bao vây nhằm đánh thành Đông Quan. Vương lại sai đóng chiến thuyền, tập thủy chiến, điểm duyệt võ khí, bổ sung quân đội, chế thứ xe đánh thành.
Lời chua – Nhị Hà: Tức sông Phú Lương. Xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 2 (Chính biên II, 13).
Đông Quan: Tức Đông Đô. Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 (Chính biên XI, 29).
Vương sai tu bổ đền thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
Quốc Tuấn là danh tướng đời Trần. Khoảng niên hiệu Trùng Hưng (1285-1292), ông có công to nhất trong việc đánh đuổi quân Nguyên. Khi ông mất, người ta lập đền thờ ở núi Vạn Kiếp1390 . Đền này vẫn có tiếng là thiêng lạ. Bình Định vương sai Dương Thái Nhất sửa lại đền, cấm không được đẵn phạt cây cối ở đền. Rồi Vương lại hạ lệnh cho các lộ theo đúng lễ nghi thờ cúng đền từ các công thần các đời trước.
Lời chua – Núi Vạn Kiếp: Xem Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 6 (Chính biên VII, 31).
Vương hạ lệnh cho dò hỏi tìm kiếm những người có tài trí, mưu lược và dũng cảm có thể làm được tư mã, thượng tướng.
Bây giờ thành Đông Quan chưa hạ được, đang cần dùng nhân tài giúp việc bày mưu lập keế, nên Vương ra lệnh cho các tướng hiệu và quan các lộ ai nấy đều được tiến cử một người.
Vương ra lệnh cho dân nộp thóc vào nhà nước, rồi ban cho tước phong có thứ bậc khác nhau.
Vương cho nhân dân các lộ được nộp thóc để cung cấp lương thực cho quân đội, rồi được phong tước có thứ bậc khác nhau.
Bọn Thái Phúc và Tiết Tụ, thủ tướng1391 Minh ở thành Nghệ An và thành Diễn Châu, đều đầu hàng.
Sau khi hai thành Nghệ An và Diễn Châu đã bị hạ, tình thế người Minh ngày càng cô lập.
Lời chua – Nghệ An: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 21-23).
Diễn Châu: Xem thuộc Đường, Cao Tông, năm Điều Lộ thứ 1 (Tiền biên IV, 20).
Vương sai Hà Vượng, bá hộ Minh, đi dụ hàng Vương Thông.
Thông đóng chặt cửa thành, liều chết cố giữ. Bấy giờ nhân Hà Vượng đầu hàng quân ta, Bình Định vương sai Vượng đem thư vào thành Đông Quan chiêu dụ Thông.
Vương dùng Nguyễn Trãi làm Lại Bộ thượng thư nhập nội hành khiển kiêm giữ công việc viện Xu Mật.
Trước kia, Vương đóng ở Lỗi Giang, Nguyễn Trãi, “tay cầm roi ngựa”1392 , đến yết kiến Vương, dâng sách lược dẹp giặc Ngô, được Vương khen và tiếp nhận, phong làm Tuyên phụng đại phu hàn lâm thừa chỉ, tham dự bàn mưu ở nơi màn trướng. Phàm những lời Trãi bàn nói đều được Vương nghe theo. Đến đây, Vương dùng Trãi làm thượng thư nhập tướng1393 .
Trãi có tài kinh bang tế thế. Bấy giờ Vương làm cái chòi trong doanh trại Bồ Đề ở bên sông Nhị Hà, ngày ngày lên chòi ngó xem động tĩnh của địch ở trong thành Đông Quan. Vương cho Trãi ngồi hầu ở tầng chòi thứ hai, vâng lĩnh ý chỉ, thảo các thư trát qua lại giao thiệp với người Minh.
Bức thư gửi cho Vương Thông1394 , đại lược nói: “Tôi nghe: Kẻ lấy thành thực mà làm cảm phục người ta thì người ta tất cũng lấy thành thực mà cảm phục lại. Cái đạo thành thực rất mực còn có thể làm cảm động được trời đất và quỷ thần, huống chi là người ta! Nay đại nhân1395 vâng theo chiếu chỉ, cầm binh quyền ở ngoài cửa ải1396 , đáng lý nên đối đãi người ta bằng thành thực mới phải; vậy mà lại đi ôm ấp dối trá, lừa gạt người ta, rồi tự cho mình là cao, thì đức tin thực ở đâu nhỉ?…
“Nếu đại nhân nói lời mà giữ lấy lời, cho rút quân để làm trọn tình giao hảo trước đây, thì tôi cũng sẽ trả đủ tất cả số người ở các thành đã đầu hàng và các binh sĩ đã bị bắt làm tù binh. Nếu không thế thì xin đại nhân cứ đem những binh sĩ ở các thành đang ngậm hờn nuốt giận [vì bị đánh lừa không được cho về] kia mà quần nhau với ba mươi vạn quân thân tín của tôi ở dưới thành Đông Quan, bấy giờ sẽ xem đại nhân truyền bảo đối xử ra sao nhỉ!”.
Bức thư dụ các thổ quan1397 ở thành Điêu Diêu, đại lược nói: “Các khanh là người Giao Việt, cùng nòi cùng giống nhà ta. Mới đây, vì họ Hồ1398 thất đức, người Minh lăng loàn, cho nên các khanh hoặc sa chân vào triều đình giặc, hoặc mắc danh vào chức ngụy quan: đó là bất đắc dĩ, chứ có phải là bản tâm đâu. Nếu biết bỏ tà quy chính thì chẳng những ta để cho các khanh rửa được điều hổ thẹn trước, mà các khanh lại còn được đội ơn ưu đãi lục dụng là khác nữa”1399 .
Bức thư dụ các tướng hiệu ở Giang Bắc thế này: “Nước An Nam ta tuy xa ở ngoài Ngũ lĩnh, nhưng vẫn có tiếng là một nước Thi, Thư1400 . Những bậc có tài trí, có kiến thức, có mưu mô, đời nào cũng chẳng thiếu gì người.
“Trước đây, quan tổng binh Thành Sơn hầu1401 , từ sau trận thua cay ở Ninh Kiều, có sai người đưa thư ước hẹn xin hòa. Nay lại đắp thêm rào lũy, sửa sang khí giới, tự cho thế là chước giỏi mưu tài! Bội ước thất tín đến thế là cùng! Vậy tính chước cho các người bây giờ: chi bằng kéo ra khỏi thành, nhất quyết cùng toán quân của Thái đô đốc (Thái Phúc) rút lui về nước để cứu cho vài nghìn người trong thành được toàn hoạt tính mạng. Bằng chẳng thì trong khoảng nay mai, các người sẽ biết nhau thôi. Các người nên nghĩ kỹ, đừng để sau phải ăn năn”1402 .
Từ lệnh của Nguyễn Trãi đại loại là như vậy.
Lời chua – Lỗi Giang: Xem Trần Đế Ngỗi, năm Hưng Khánh thứ 1 (Chính biên XII, 17-18).
Dinh Bồ Đề: Theo Bắc Ninh tỉnh chí , dinh cũ Bồ Đề ở thôn Phú Hựu, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh, trong thôn ấy có hai cây bồ đề, nên gọi tên như vậy.
Điêu Diêu1403 : Tên thành. Xem Bình Định vương năm thứ 9 (Chính biên XIII, 35).
Nhập nội thiếu bảo Trần Lựu đánh thành Khưu Ôn. Tôn Tụ thủ tướng nhà Minh, lẩn trốn.
Bọn Lựu ngày đêm đánh gấp thành Khưu Ôn. Người Minh liệu không thể chống nổi, bỏ thành, đương đêm, lẩn trốn.
Lời chua – Khưu Ôn: Xem Trần Nhân Tông, năm Trùng Hưng thứ 1 (Chính biên VII, 36). Minh sử thông giám ký sự chép: “Lê Lợi đánh Khưu Ôn, đô chỉ huy Tôn Tụ chống giữ”.
Vương sai tư mã Cao Ngự đánh thành Cổ Lộng.
Người Minh đóng chặt cửa thành, liều chết cố giữ Cổ Lộng; quân ta bao vây, đánh mãi không hạ được.
Lời chua – Thành Cổ Lộng: Xem Trần Đế Ngỗi, năm Hưng Khánh thứ 2 (Chính biên XII, 28).
Bọn Trương Lân, thủ tướng Minh ở thành Điêu Diêu, đầu hàng.
Trước kia, Lê Quốc Hưng đánh thành Điêu Diêu, đến đây thành này phải đầu hàng.
Vương hạ lệnh trao quan tước cho các thổ tù ở miền ven biên giới.
Trước kia, Vương đến Đông Đô, các thổ tù ở miền ven biên giới đều xúm xít theo đến cửa quân; đến đây, Vương sai trao cho họ các chức đoàn luyện, thủ ngự và ban cho tước phong.
Lời chua – Đoàn luyện, thủ ngự: Đều là chức quan. Xem Bình Định vương năm thứ 9 (Chính biên XIII, 33).
Tháng 2. Phương Chính nhà Minh đánh úp huyện Từ Liêm: thái úy Lý Triện tử trận.
Các tướng Lý Triện, Đỗ Bí đóng quân ở huyện Từ Liêm, bị Phương Chính bí mật ra quân đánh úp. Triện cố sức chiến đấu, chết tại trận; Bí bị bắt, kịp khi việc giảng hòa đã xong, được người Minh lấy lễ độ mời về.
Lời chua – Từ Liêm: Tên huyện. Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 (Chính biên XI, 31).
Chiêm Thành đến tiến cống.
Chiêm Thành sai sứ đến cống các sản vật địa phương. Bình Định vương thết yến sứ giả, lại ban cho ngựa và lụa rồi cho về. Để đáp lễ lại, Vương sai Hà Lật, Thiêm tri Xu mật viện, sang thăm Chiêm Thành.
Lời chua – Chiêm Thành: Nước Lâm Ấp xưa. Xem thuộc Tấn, Mục Đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 (Tiền biên III, 20-21).
Đường Bảo Trinh, thủ tướng Minh ở thành Thị Cầu, đầu hàng.
Trước kia, Vương vời Lê Chích ở Nghệ An ra, cho làm tổng tri Hồng Châu và Tân Hưng lộ, dồn lực lượng đánh Thị Cầu; đến đây, thành này đầu hàng.
Bấy giờ tướng tá nhà Minh đầu hàng ngày một đông. Vương sai phân tán chúng ra, cho ở tại Lam Sơn, Thanh Hóa, Tân Bình và Nghệ An.
Lời chua – Thành Thị Cầu: Xem Bình Định vương năm thứ 9 (Chính biên XIII, 35).
Hồng Châu: Xem thuộc Đường, Chiêu Tuyên đế, năm Thiên Hựu thứ 3 (Tiền biên V, 14).
Thanh Hóa: Châu Ái xưa. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 20-21).
Lam Sơn: Xem Bình Định vương năm thứ 1 (Chính biên XIII, 2).
Tân Bình: Tức là Địa Lý. Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chính biên III, 29).
Vương sai tu bổ lăng miếu đế vương các triều đại trước.
Trong số lăng miếu đế vương các triều đại trước, cái nào bị phá hủy vì nạn binh lửa thì Vương sai tu sửa lại, tùy từng lăng miếu mà cấp cho số phu phục dịch về việc thờ cúng có khác nhau.
Tháng 3. Vương duyệt binh ở huyện Vĩnh Động; chém Nguyễn Liên để rao trong quân.
Khí giới và hàng ngũ của toán quân do chánh đốc Nguyễn Liên cai quản phần nhiều không chỉnh tề, Vương sai chém Liên đem rao trong quân để làm gương răn kẻ khác.
Lời chua – Vĩnh Động: Tên huyện, nay là Kim Động thuộc tỉnh Hưng Yên.
Chánh đốc: Theo “Chức quan chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, quan võ đời Lê có chức chánh đốc, phẩm trật ở dưới chức đốc quản.
Dùng Bùi Ư Đài làm Lễ Bộ thượng thư1404 kiêm trông coi sổ sách quân và dân ở Đông Đạo.
Lưu Thanh, thủ tướng Minh ở thành Tam Giang, đầu hàng.
Vương chia sai các tướng Trịnh Khả đi đánh các thành. Người Minh ban đầu còn đóng chặt cửa thành, đợi quân cứu viện; về sau, bị quân ta bao vây đánh phá, lâu dần chúng càng cùng quẫn kiệt quệ. Các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thị Cầu và Điêu Diêu đều lần lượt đầu hàng.
Vương sai Nguyễn Trãi đem theo viên chỉ huy họ Tăng, là người Minh đã đầu hàng ta, đến dụ thành Tam Giang: thành này đầu hàng.
Trước kia, khi Vương còn ở Thanh Hóa, người bản thổ thành Tam Giang theo quân Minh, bị điều động đi trận, khi thua rút về, có kẻ nói ra những lời láo xược phạm thượng, Lưu Thanh bèn mắng ngay rằng: “Quân mán xá này vô lễ! Người1405 là vua của các nị đấy!”. Đến đây, Lưu Thanh đầu hàng. Sau đó ít lâu, nhiều người ở các thành khác đã hàng vì âm mưu làm phản đều bị giết cả, riêng có thành Tam Giang này không dính líu gì đến việc làm phản ấy.
Lời chua – Tam Giang: Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 (Chính biên XI, 29).
Tăng: Sử cũ không chép tên.
Các nị: Chúng mày.
Tư không Đinh Lễ và thượng tướng quân Lê Xí đánh nhau với người Minh ở Mi Động: bị thua, Lễ tử tiết.
Vương Thông đem quân tinh nhuệ trong thành lén đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt. Bình Định vương sai các tướng Lễ và Xí đi cứu. Khi đến Mi Động, Thông thấy bọn Lễ ít quân, bèn chia binh đánh kẹp lại. Bọn Lễ thống lĩnh hơn năm trăm quân Thiết Đột, cố sức chiến đấu: voi bị sa lầy, Lễ và Xí đều bị bắt về thành Đông Quan. Đinh Lễ không chịu khuất phục, bị giặc giết chết. Còn Xí, nhân một đêm mưa gió, dùng mẹo trốn thoát được.
Vương cho rằng các tướng Đinh Lễ và Lý Triện1406 đều có công lớn, chết vì việc nước, bèn phong em Lễ là Đinh Liệt làm nhập nội thiếu úy, phong cha của Triện là Lý Ba Lao làm quan sát sứ và cấp cho hơn một trăm mẫu ruộng, con của Triện là Lăng làm phòng ngự sứ.
Lời chua – Mi Động: Tên xã. Nay là Hoàng Mai thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội1407 .
Tây Phù Liệt: Xem ngang với Tống, Thái Tổ, năm Kiến Đức thứ 4 (Tiền biên V, 30).
Lý Ba Lao, Lý Lăng: Đều là người làng Bái Đô, huyện Lôi Dương1408 , sau được cho lấy theo họ Lê.
Nhà Minh sai các tướng chia đường sang cứu thành Đông Quan.
Trước kia, chiến dịch Tốt Động, Trần Hiệp thua trận, bị chết; Vương Thông xin với nhà Minh cho thêm quân. Vua Minh được tin, vô cùng sợ hãi, bèn sai:
Tổng binh chinh lỗ phó tướng quân thái tử thái phó An Viễn hầu là Liễu Thăng, tham tướng Bảo Định bá là Lương Minh, đô đốc là Thôi Tụ, Binh bộ thượng thư là Lý Khánh, Công bộ thượng thư là Hoàng Phúc và hữu bố chính sứ là Nguyễn Đức Huân1409 thống lĩnh mười vạn quân, hai vạn ngựa, do đường Quảng Tây tiến đánh cửa ải Pha Lũy1410 ;
Chinh nam tướng quân thái phó Kiềm quốc công là Mộc Thạnh, tham tướng Hưng An bá là Từ Hanh và Tân Ninh bá là Đàm Trung, do đường Vân Nam, tiến đánh cửa ải Lê Hoa1411 .
Lời chua – Quảng Tây, Vân Nam: Đều là tên hai tỉnh ở đời Minh1412 . Theo sách Ngự phê lịch đại thông giám tập lãm của nhà Thanh, thì vua Minh khi được tin Vương Thông thất bại, sợ hãi quá chừng, bèn sai Liễu Thăng làm Tổng binh quan, Bảo Định bá Lương Minh làm chức phó, đô đốc Thôi Tụ làm tham tướng, thượng thư Lý Khánh làm tham tán quân vụ. Tất cả đều do đường Quảng Tây kéo quân sang đánh. Vua Minh lại sai Mộc Thạnh, Hưng An bá Từ Hanh và Tân Minh bá Đàm Trung do đường Vân Nam tiến quân sang. Lại sắc sai Vương Thông phải cố giữ lấy thành để đợi quân cứu viện. Vua Minh lại cho Hoàng Phúc vẫn cứ kiêm giữ công việc hai ty Bố chính và Án sát ở Giao Chỉ, cùng với bọn Thăng cùng đi sang.
Cửa ải Pha Lũy: Xem Hồ Hán Thương, năm Khai Đại thứ 4 (Chính biên XII, 14).
Cửa ải Lê Hoa: Theo Tuyên Quang tỉnh chí , tương truyền rằng, xưa kia, Lê Hoa thuộc tỉnh Tuyên Quang, về sau bị lấn mất vào Mông Tự thuộc Vân Nam. Vậy chưa biết có đúng không1413 .
Vương sai các lộ tiến cử những người hiền lương, chân chính, trí dũng và hào kiệt, vời đến xét hỏi mà liệu cất nhắc bổ dùng. Quan ở lộ nào hễ che dấu người hiền thì sẽ bị luận vào tội mà giáng chức truất quyền. Vương ra lời dụ về việc này rằng: “Ta không có tài trí gì khác đâu, vậy mà phải gánh vác trách nhiệm nặng nề này e không kham nổi, cho nên sẵn sàng khiêm tốn cầu hiền cùng lo mưu toan việc lớn để cứu vớt nhân dân. Vậy hễ thấy có những người hiền lương, chân chính, trí dũng siêu quần thì cho phép mọi người được làm việc tiến cử hoặc chính người hiền ấy được tự tiến lấy1414 , ta tất sẽ ban cho quan to và tước lớn”.
Vương lại dụ bảo các hào kiệt trong nước rằng: “Các thành đã thu phục được rồi, riêng còn thành Đông Quan vẫn chưa hạ được; ngày đêm ta những sốt ruột nóng lòng, vì rằng chưa tìm được người giúp ở tả hữu, chưa đặt được Tướng quốc, Thái phó và Thái bảo, mà Thái uý và đô nguyên súy thì cũng còn khuyết. Vậy nên ta vẫn hạ mình khiêm tốn, mở rộng lòng thành thực, rắp mong các bậc hào kiệt đồng lòng họp sức cứu giúp nhân dân, chứ đừng giấu tài ẩn tích, khiến cho thiên hạ phải sa mãi vào cảnh lầm than cực khổ. Có ai nếu cao thượng như Tứ hạo1415 và ở ẩn hợp với chính đạo như Nghiêm Tử Lăng1416 , hãy cứ cố gắng trỗi dậy, trừ hại cho dân; sau khi thành công, muốn về ở ẩn trong rừng núi cho thỏa chí vẫn ôm ấp thì ta cũng không ngăn cấm nào”.
Lời phê – Làm được nên việc, là vì thế đó1417 . Vương dụ bảo các quản quân quan1418 chớ có tự tiện giết người.
Vương dụ bảo các thiếu úy và chấp lệnh: đối với quân nhân can phạm luật trong lúc thường, không được tự tiện chuyên quyền mà giết chết, chỉ trừ khi kẻ nào ra trận mà trái lệnh, thì được phép xử trí bằng quân pháp1411 .
Lời chua – Thiếu úy, chấp lệnh: Theo “Chức quan chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, thì trong các chức quan cầm quân của đương thời có thiếu úy, phẩm trật ở dưới đại tư mã, và có chấp lệnh, phẩm trật ở dưới chánh đốc.
Vương ra chỉ dụ cấm tà đạo.
Cấm những kẻ vu cổ1420 , tà đạo1421 mượn tiếng tà thần, tung ra những lời nhảm nhí để làm dao động mê hoặc người ta.
Vương ra chỉ dụ cho những người xiêu dạt lưu ly ai nấy lại về quê cũ.
Bấy giờ nhân dân gặp loạn, xiêu dạt tan tác. Vương hạ lệnh cho tất cả đều về quê cũ làm ăn cho khỏi thất nghiệp.
Tháng 4, mùa hạ. Vương ra chỉ dụ cho tu sửa cửa ải Lê Hoa.
Sai phòng ngự sứ Trần Ban tu sửa cửa ải này, là vì cớ đề phòng viện binh nhà Minh kéo sang.
Vương ban bố mười điều hiến chương trong quân cho các tướng sĩ.
Vương nhóm học tất cả các tướng sĩ, ban bố cho biết mười điều hiến chương:
1- Ở trong quân, làm huyên náo, không nghiêm túc;
2- Kinh sợ một cách hão huyền, làm hoang mang mọi người;
3- Khi ra trận, nghe trống hiệu thúc, thấy cờ hiệu phất, còn chần chờ không chịu tiến;
4- Thấy phất cờ ngừng quân, không chịu ngừng;
5- Nghe tiếng chiêng thu quân, không chịu lui;
6- Phòng thủ không cẩn mật, lạc lõng hàng ngũ, thoát ly ngôi vị;
7- Chỉ riêng bịn rịn vợ con, không làm quân dịch;
8- Bán đi hoặc buông thả quân lính, mập mờ che giấu sổ tên quân nhân;
9- Theo ý riêng yêu ghét của mình, làm mờ công lao hay tội lỗi của người khác;
10- Gian lậu, trộm cắp;
Mười điều trên đây, kẻ nào vi phạm thì phải chết chém.
Vương dụ các tướng hiệu trong đội quân Thiết đột rằng “Đồng lòng liều mạng để phá giặc: đó là công sức của các ngươi. Còn như sắp xếp quy mô kế hoạch, lo liệu áo mặc, lương ăn, ban thưởng, ban tước thì ở cả một mình ta đây. Các ngươi nên một lòng một dạ đánh giặc, đừng ngại nhọc nhằn”.
Lại dụ quân và dân rằng: “Giặc mạnh chưa trừ diệt hết, dân sinh chưa được thỏa thuê, các ngươi có yên tâm không? Xưa kia, họ Hồ1422 lỗi đạo, người Minh thừa cơ kéo sang xâm lược, bắt dân ta phải chịu thuế nặng, sưu cao, hình phạt hà khắc. Các ngươi đều mắc vào vòng bạo ngược của chúng, nên mới cùng nhau đứng dậy, chống kẻ thù địch. Bây giờ công việc đã gần thành tựu, các ngươi nên cố gắng đắp tròn quả núi, đừng để thiếu một sọt đất mà núi phải dở dang! Vả, chỉ phải dùng sức khó nhọc một năm mà được hưởng vui sướng thái bình muôn thuở. Các ngươi hãy cố gắng lên!”.
Vương răn dạy các quan gồm có ba điều.
Lời chua – Ba điều: 1- Chớ vô tình1423 ; 2- Chớ khinh nhờn; 3- Chớ gian tham.
Tháng 5. Vương đặt luật lệnh trong quân.
Ra lệnh cho các tướng hiệu: hễ nghe một tiếng pháo1424 nổ mà không có tiếng chiêng thì phải đến ngay để nghe mệnh lệnh. Khi nào có hai, ba tiếng pháo và hai ba tiếng chiêng nổi lên thì là có động gấp rút, bấy giờ chấp lệnh thì mau mau sắp xếp hàng ngũ cho chỉnh tề, thiếu úy thì tới quân doanh để nghe mệnh lệnh. Các quân khi đi trận, mà lùi chạy, hoặc bỏ không cứu quân đoạn hậu thì phải chém. Nhưng khi biết góp sức khiêng ra được bạn đồng ngũ không may chết trận thì được miễn tội chạy trốn ấy.
Vương hạ lệnh tuyển lấy những người tinh nhuệ và cường tráng để bổ sung vào hạng thân quân.
Bấy giờ sổ thị vệ thân quân chưa được bổ sung, Vương sai quan thiếu úy tuyển trong dân gian lấy những người thân thể tráng kiện, tinh thông võ nghệ, mỗi thiếu úy tuyển lấy hai trăm người để bổ sung vào.
Vương sắc sai miền Nam đạo thu nuôi những người đã đầu hàng.
Bấy giờ những người đã đầu hàng ở các thành cả nam lẫn nữ gồm hơn 6000 người. Vương sai các lộ Thiên Trường, Kiến Xương, Lỵ Nhân và Tân Hưng thu lấy mà nuôi dưỡng, đừng để cho họ long đong, không yên chỗ.
Đặt rõ thể lệ chuộc tội bằng tiền cho vợ con và gia quyến của ngụy quan. Các người trong gia quyến và các nô tì của các ngụy quan từ bố chính sứ ti xuống đến sinh viên đều được chuộc tiền có tầng bậc khác nhau.
Lời chua – Nam Đạo: Xem Bình Định vương năm thứ 9 (Chính biên XIII, 32).
Thiên Trường, Kiến Xương: Xem Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 15 (Chính biên VI, 28).
Lý Nhân: Xem Lý Thái Tông, năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 1 (Chính biên III, 3).
Tân Hưng: Xem Bình Định vương, năm thứ 9 (Chính biên XIII, 26).
Thể lệ chuộc tội bằng tiền: Vợ con của gia quyến của bố chính sứ ti: 70 quan; vợ con gia quyến của sinh viên hoặc thổ quan: 10 quan; còn các nô tì cả trai lẫn gái: 5 quan.
Thổ tù ở Mộc Châu là Xa Khả Sâm1425 đem quân lính ở bản châu đến quy phụ, được phong làm nhập nội tư không và cho lấy theo họ Lê.
Xa Khả Sâm, thổ tù Mộc Châu thuộc Gia Hưng, đem quân lính trong châu đến quy phụ. Vương hạ chiếu phong làm nhập nội tư không tri Đà Giang trấn thượng bạn, cho các con của Sâm là bọn Lộc, Khát, Bàn, Điểm đều làm đại tướng quân, cho được đổi theo họ Lê.
Lời chua – Xa Khả Sâm: Theo Hưng Hóa lục của Hoàng Trọng Chính1426 , thì tiên tổ Xa Khả Sâm là con thứ vua Mang Chân nước Ai Lao. Vua Mang Chân yêu người con ấy, ban cho Mộc Châu làm thái ấp. Từ đó, đời này qua đời khác, họ Xa làm chức phụ đạo ở Mộc Châu1427 .
Mộc Châu: Nay thuộc tỉnh Hưng Hóa.
Đà Giang: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 27).
Tháng 6. Trấn Viễn hầu nhà Minh là Cố Hưng Tổ xâm phạm cửa ải Pha Lũy. Tướng trấn giữ của ta là Trần Lựu đón đánh: địch phải chạy.
Nhà Minh sai Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ, tổng binh Quảng Tây, đem năm vạn quân, năm nghìn ngựa, sang cứu Đông Đô. Khi đến cửa ải Pha Lũy, bị các thủ tướng của ta là Trần Lựu và Lê Bôi đón đánh: giặc phải bỏ chạy.
Tháng 7, mùa thu. Vương ra chỉ dụ cho làm hộ tịch.
Vương sai các lộ cứ chiếu theo số người “kiến tại”1428 , làm sổ hộ tịch. Từ đó về sau, ba năm lại một lần làm sổ hộ tịch. Đó là vẫn theo chế độ nhà Trần.
Lời chua – Hộ tịch: Theo Lữ trung tạp thuyết1429 của Bùi Bích1430 , thì đầu đời Lê1431 vẫn theo lối cũ của nhà Trần, cứ ba năm lại một lần làm sổ hộ tịch; xuống đến hồi Trung Hưng (1593-1789), phép làm hộ tịch này cũng không thay đổi, gọi là “kế tu”1432 .
Tháng 9. Các tướng Trần Hãn và Lê Sát đánh thành Xương Giang: hạ được.
Xương Giang là đường lối quân Minh tất phải qua lại. Bọn chỉ huy Minh là Kim Dận và Lý Nhâm (Nhậm) bị vây hàng hơn sáu tháng, liều chết cố giữ để đợi viện binh; quan quân không hạ được. Đến đây, các tướng Trần Hãn khoét đất thành đường hầm đi xuyên vào thành, đánh kẹp lại, mới phá được thành này. Bọn Kim Dận đều bị chết.
Lời chua – Thành Xương Giang: Xem Bình Định vương năm thứ 2 (Chính biên XIII, 12).
Vương sai Chủ thư thị sử Trần Hổ đi tuyên dụ vỗ về châu Ninh Viễn: hạ được châu này. Thổ tù ở Ninh Viễn là Đèo Cát Hãn đem quân lính trong châu đến quy phụ.
Trước kia, Cát Hãn đi với Minh, lâu mãi không quy thuận. Vương sai Trần Hổ đi chiêu dụ: Cát Hãn bèn đem quân và voi đến theo Vương. Vương cho hắn lại cứ cai quản công việc trong châu.
Lời chua – Ninh Viễn: Tên châu xưa, sau đổi làm Phục Lễ, nay là Lai Châu thuộc tỉnh Hưng Hóa1433 .
Đèo Cát Hãn: Theo Hưng Hóa lục của Hoàng Trọng Chính, họ Đèo đời này qua đời khác làm phụ đạo ở Lai Châu.
Vương sai các tướng Lê Sát và Trần Lựu đón đánh viện binh của Minh ở Chi Lăng, cả phá được quân địch, chém tổng binh Liễu Thăng, bắt sống đô đốc Thôi Tụ và thượng thư
Hoàng Phúc. Đại tướng Minh, Mộc Thạnh, phải chạy trốn. Vương Thông bèn phải xin hòa. Tháng 11, mùa đông, Bình Định vương và Thông hội thề ở phía nam thành Đông Quan1434 .
Trước kia, các tướng sĩ ta được tin quân cứu viện của Minh sắp kéo sang, phần đông đều khuyên Vương nên đánh gấp Đông Đô để diệt địch ở trong làm nội ứng. Vương bảo rằng: “Đánh thành, là mưu thấp; chi bằng nuôi sức quân, tích lũy lấy tinh thần sắc bén, đợi giặc đến, ta đánh phá ngay. Một khi viện binh đã bị tuyệt diệt thì thành Đông Đô tất phải đầu hàng. Đó là mưu chước vạn toàn: làm một việc mà được lợi cả hai”.
Vương bèn sắp xếp việc phòng thủ một cách nghiêm mật, ra lệnh cho các lộ Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang và Quy Hóa làm cho đồng ruộng sạch quang1435 để tránh mũi dùng sắc bén của địch. Đến đây, hay tin bọn Thăng đã kéo nhau đến đầu biên giới. Vương nhóm họp các tướng, bàn rằng: “Quân địch cậy mạnh lấn yếu, ỷ đông hiếp phía ít người. Ý chúng chỉ cốt chạy theo mối lợi chứ không đoái nghĩ gì đến chuyện gì khác. Chúng đi gấp suốt ngày đêm từ hàng nghìn dặm sang đây để cứu viện. Thế là đúng như Binh pháp đã nói: “Quân đi hàng năm trăm dặm mà chỉ vội nhằm lấy lợi thì viên thượng tướng tất phải kiệt quệ!”. Bây giờ thừa cơ chúng nó mới đến, người mệt, ngựa mỏi, chúng ta với cái thế lấy sức thong thả chờ đợi quân giặc đang nhọc nhằn, đánh ngay cho đòn phủ đầu để làm bạt tinh thần của chúng thì không còn chệch đâu mà không thắng nữa”.
Vương liền sai các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh1436 , Đinh Liệt và Lê Thụ đem hơn một vạn quân và năm thớt voi trước đặt phục binh ở cửa ải Chi Lăng để đợi giặc. Lại sai Lê Lý và Lê Văn An lĩnh ba vạn quân, lục tục tiến lên.
Bấy giờ Trần Lựu phòng thủ cửa Pha Lũy, thấy giặc đến, lui giữ cửa Ải Lưu. Giặc tràn đến, giành lấy Ải Lưu, Trần Lựu lại lui giữ cửa ải Chi Lăng. Phía trước cửa ải này cứ cách từng quãng lại có rào lũy để chống giữ. Liễu Thăng thừa thắng đánh gấp, phá luôn được: tiến đến đâu cũng không còn ai dám chống cự nữa. Thăng rất đắc ý.
Vương sai người đem thư đến cửa quân của Thăng, cầu xin nhà Minh làm theo cái ý “tiếp nối cho dòng vua một họ đã bị tuyệt diệt” do Minh Thành Tổ (1403-1424) đề xướng trước và cho lập Trần Cao làm chủ trong nước, bãi việc binh đao, khiến dân được yên nghỉ. Thăng nhận thư, không mở xem, liền cho chạy trạm đem về tâu với vua Minh, còn mình thì cứ kéo quân ruổi dài thẳng tiến. Khi Thăng đến chỗ còn cách Chi Lăng vài dặm, các tướng Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh, giả cách thua chạy. Thăng hí hửng mừng, chính hắn cầm đầu hơn trăm quân kỵ1437 xông xáo lên trước, xa lìa toán quân hậu đội, rồi hắn, vì lầm lỡ, sa xuống lầy. Phục binh của ta thình lình nổi dậy: đánh cho quân địch phải thua xiểng liểng, chém Thăng ở sườn núi Đảo Mã và hơn vạn thủ cấp quân Minh.
Đạo quân của các tướng Lê Lý vừa vặn kéo đến, hội với đạo quân của các tướng Lê Sát. Bấy giờ quân phục lại trổ sức đánh khép lại: chém Lương Minh ở vòng trận và làm cho Lý Khánh phải tự vẫn chết. Thôi Tụ và Hoàng Phúc sắp xếp lại quân đội, rảo thẳng xuống Xương Giang. Các tướng Lê Sát đón đánh: phá được địch. Bọn Tụ thu lượm số quân còn sót, gượng gạo tiến lên. Kịp khi biết tin Xương Giang đã bị phá, chúng cả sợ, phải đắp lũy đất ở ngoài đồng để tự vệ. Vương sai quân thủy và quân bộ bao vây chúng. Rồi ra lệnh cho Trần Hãn cắt đứt đường vận tải lương thực của địch, các tướng Phạm Vấn, Lê Khôi và Lê Xí thống lĩnh ba nghìn quân Thiết đột đi tiếp ứng. Mặt trận quân Minh rối loạn. Quan quân
chém hơn năm vạn thủ cấp địch, bắt sống bọn Tụ, Phúc và ba vạn quân Minh. Thôi Tụ không chịu khuất phục, Vương sai giết chết.
Bấy giờ Mộc Thạnh đang cầm cự với các tướng Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả ở cửa ải Lê Hoa. Vương liệu trước rằng Mộc Thạnh là tay lão luyện, tất còn phải nghe ngóng cánh quân Liễu Thăng được thua ra sao đã, chứ không chịu vội vã tiến quân một cách khinh thường. Vương bèn sai mật dặn các tướng Văn Xảo và Trịnh Khả đừng giao chiến với địch vội. Kịp khi Liễu Thăng thua trận, Vương sai đem những tì tướng nhà Minh đã bị bắt làm tù binh và những sắc thư, phù tín, ấn chương đã bắt được đưa đến chỗ quân Mộc Thạnh cho Thạnh biết. Thạnh quá kinh hãi. Quân Thạnh tự tan vỡ, lẩn chạy. Các tướng Trịnh Khả nhân đà đang sắc bén, tung quân ra đánh phá; chém hơn vạn thủ cấp, bắt được hơn một nghìn quân địch và hơn một nghìn ngựa. Mộc Thạnh chỉ kịp một người một ngựa chạy thoát.
Vương lại sai giải Hoàng Phúc đến thành Đông Quan và kèm theo chiếc song hổ phù1438 của Chinh lỗ phó tướng quân1439 với hai quả ấn bạc của chức Thượng thư1440 . Bọn Thông cả sợ, liền sai người đem thư đến xin hòa. Vương ưng thuận, bèn hội thề ở phía nam thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp1441 thì Thông rút hết quân về nước. Vương sai chạy thư đi các thành Tây Đô, Cổ Lộng1442 và Chí Linh truyền cho các tướng cởi vòng vây, kéo quân về.
Lời phê1443 – Bình Định vương là bậc tài trí sáng suốt, lại giỏi dụng binh, các tướng chẳng ai sánh kịp. Vì thế cho nên chiến thắng được quân địch mạnh lớn, khai sáng được cơ nghiệp, dõi truyền được quốc thống: đáng lắm thay! Lời chua – Cửa ải Chi Lăng: Xem Lê Đại Hành, năm Thiên Phúc thứ 2 (Chính biên I, 17).
Lạng Giang: Tức Lạng Sơn. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 31).
Bắc Giang: Tức Kinh Bắc. Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 28).
Tam Đái: Xem ngang với Tống, Thái Tổ, năm Kiến Đức thứ 4 (Tiền biên V, 29- 30).
Tuyên Quang: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chính biên XXI, 30).
Quy Hóa: Xem Trần Thái Tông, năm Nguyên Phong thứ 7 (Chính biên VI, 41).
Cửa ải Ải Lưu: Ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn. Thông giám tập lãm chép: “Liễu Thăng vâng mạng vua Minh, chờ đợi đã lâu để các quân tập hợp lại. Đến đây, Thăng mới trẩy đến cửa Ải Lưu. Lê Lợi đã có lời ước hẹn với Vương Thông từ trước, bấy giờ mới giả mạo làm bức thư của người trong nước nói họ Trần còn có con cháu, rồi sai bộ hạ đưa thư đến cửa quân của Thăng xin bãi binh, lập dòng dõi họ Trần. Thăng không mở thư xem, sai ngay sứ giả đem việc ấy tâu lên vua Minh, rồi vội vã tiến quân, phá luôn được vài mươi chặng quan ải, thẳng tiến đến cửa ải Trấn Di. Thăng tỏ ý rất khinh địch. Lang
Trung Sử An và chủ sự Trần Dong e rằng phía địch1444 bề ngoài làm ra yếu kém để nhử quan quân1445 , vội nói với Lý Khánh khuyên Thăng nên thận trọng, đừng có khinh suất tiến quân. Bây giờ Lý Khánh và Lương Minh đang ốm nặng, gượng bệnh trở dậy, đi khuyên bảo Thăng; còn đô sự Phan Nhân thì nhắc lại trận thua ở Ninh Kiều1446 để răn bảo Thăng. Thăng không để ý đến những lời can ngăn ấy, xông xáo ngay đến sườn núi Đảo Mã, cùng với hơn một trăm quân kỵ giong ruổi lên trước, định vượt qua cầu: cầu hỏng! Cánh quân hậu đội không tiến lên được. Thăng sa lầy. Quân phục nổi dậy: Thăng bị trúng lao1447 chết. Những kẻ tùy tùng đều bị chết sạch. Buổi tối hôm ấy Lương Minh chết. Qua hôm sau Khánh cũng chết. Thôi Tụ sắp quân tề chỉnh, kéo xuống Xương Giang. Gặp địch, bọn Tụ liều chết cố chiến đấu. Địch lùa voi trận ùa ạt đến: mặt trận [của quân Minh] rối loạn, Tụ bị bắt. Địch dụ hàng, Tụ không chịu khuất phục, bèn bị giết”1448 .
An Nam truyện trong Minh sử chép: “Mộc Thạnh kéo quân đến Thủy Vĩ1449 , làm thuyền bè, sửa soạn để chực tiến quân. Được tin Thông đã nghị hòa, Thạnh cũng rút lui. Địch thừa thắng đổ ra đánh: Thạnh thua to”.
Minh sử thông giám kỷ sự chép: “Thôi Tụ thống suất quan quân tiến đánh Xương Giang, gặp địch, bọn Tụ hăng hái liều chết cố đánh. Tụ là viên tướng kỳ cựu, nhưng vì trong lúc bối rối, nguyên súy1450 mới bị tử trận, quan lại và quân sĩ nao núng, nhộn nhạo, nên khi bị địch lùa voi ra đánh thì quan quân đổ vỡ tan tành: Tụ bị bắt. Công bộ thượng thư Hoàng Phúc bị địch bắt làm tù binh”.
Sườn núi Đảo Mã: Có tên nữa là núi Mã Yên, ở xã Mai Sao1451 , châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn.
Tây Đô: Xem Trần Đế Ngỗi, năm Hưng Khánh thứ 1 (Chính biên XII, 16).
Chí Linh: Xem Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4 (Chính biên VII, 28).
Lời phê1452 – Sử Tập lãm thì thiên vị nước mình, sử đời Lê thì thiên vị vua mình, cho nên trong sự ghi chép, đằng thì kiêng nể giấu giếm, đằng thì văn sức khoe khoang, cả hai đều không đủ tin. Vương sai sứ sang nhà Minh.
Trước kia, Vương lập Trần Cao làm chúa, có sai người đem tờ biểu, do Cao đứng tên, sang Minh cầu phong, nhưng nhà Minh không trả lời. Đến đây đã giảng hòa với nhà Minh, Vương mới dùng bọn Hàn lâm đãi chế Lê Thiếu Dĩnh và chủ thư sứ Lê Cảnh Quang đều làm Thẩm hình viện sứ, và bọn Quốc tử bác sĩ Lê Đức Huy làm Thẩm hình viện phó sứ, đem tờ biểu và sản vật địa phương cùng với một số văn quan, võ chức do Vương Thông sai đi cùng sang Yên Kinh. Đồng thời lại đưa trả nhà Minh chiếc song hổ phù
của chinh lỗ phó tướng quân, hai quả ấn bạc của chức thượng thư và số quan, quân, người, ngựa nhà Minh đã bị bắt, bị tước, làm thành văn bản danh sách đưa sang tâu trình. Bài biểu ấy1453 đại lược nói:
“Thái tổ Cao hoàng đế1454 khi mới lên ngôi, tổ tiên của thần là Nhật Khuê1455 trước tiên dâng lễ triều cống, được ơn đặc biệt khen thưởng và ban cho tước vương1456 . Từ đó, đời đời giữ gìn bờ cõi, không hề thiếu sót lễ nghi triều cống. Mới đây, nhân họ Hồ1457 soán nghịch, Thái tông Văn hoàng đế1458 dấy quân hỏi tội. Sau khi dẹp yên, nhà vua hạ chiếu tìm kiếm con cháu họ Trần để cho giữ việc thờ cúng. Bấy giờ tổng binh quan Trương Phụ chưa kịp tìm kiếm rộng khắp, đã vội xin đặt nước tôi làm quận huyện.
“Thần, trước đây, vì nước rối loạn, phải chạy trốn sang Lão Qua1459 , chỉ muốn cho chút hơi tàn được tạm kéo dài ra thôi. Dè đâu người nước quan thói tục man di, xa nghĩ đến ơn trạch của tổ tiên nhà thần, ép thần phải về nước. Bất đắc dĩ thần phải gượng theo. Dẫu rằng việc làm hấp tấp này là do người nước ép buộc, nhưng cũng là cái tội bởi thần không biết đắn đo suy lường.
“Vừa đây, đã đến cửa quân tạ tội, nhưng không được đâu để ý lắng nghe. Người nước bấy giờ sợ bị giết chết, mới phải đem nhau đi giữ những nơi quan ải để làm cái chước tự vệ lấy mình; nào ngờ quan quân từ xa đến, thấy voi, hoảng sợ, tự cùng nhau lánh chạy, tan vỡ. Việc đã đến thế, tuy là do sự bất đắc dĩ của người nước, mà cũng là tội lỗi của thần. Nhưng, số quan quân và ngựa bị bắt đều đã thu lượm nuôi dưỡng, không dám tơ hào xâm phạm.
“Nép mong hoàng thượng1460 dựa theo lời chiếu của Thái Tông Văn hoàng đế cho tìm kiếm con cháu họ Trần, nghĩ đến lòng thành thực của ông cha nhà thần đã dâng lễ triều cống trước tiên, tha cho thần cái tội to như đống gò, miễn cho thần khỏi bị giết chết bằng rìu búa, khiến thần được nối dõi ở cõi Nam, triều cống cửa trời.
“Ngoài sự riêng sai bồi thần1461 thân tín đem dâng tạ biểu và đưa đến kinh đô nộp trả ấn tín và người ngựa, nay xin đem danh sách và số mục kính cẩn tâu lên để nhà vua soi xét”.
Vua Minh xem biểu, trong lòng vẫn biết là giả dối, nhưng muốn mượn cớ đó để nghỉ việc binh đao, nên mới đem tờ biểu ấy bảo cho quần thần biết. Bọn Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh hết sức tán thành.
Vua Minh bèn sai bọn Lễ Bộ thị lang Lý Kỳ đem tờ chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam quốc vương, dụ bảo vỗ về người nước và tha tội cho. Lại ra lệnh cho ngươời trong nước phải khai bảo đầy đủ về sự thực con cháu họ Trần để tâu trình lên vua Minh. Đồng thời lại bãi bỏ ti Bố Chính sứ ở Giao Châu, sai rút quân về nước.
Lời phê – Lê Thái Tổ làm việc tòng quyền, Minh Tuyên Tông cũng theo quyền nghi mà xử sự. Đó đều vì tình hình lúc bấy giờ có chỗ không thể không xong, việc này không thể theo luận điệu khắc nghiệt của tục nho mà chê trách được. Còn như việc Thanh Cao Tông1462 bao dung ngụy Huệ1463 mới là việc xảo trá, kiêu căng, đáng khinh bỉ!
Lời chua – Lê Thiếu Dĩnh: Người làng Mộ Trạch1464 thuộc huyện Đường An.
Sản vật địa phương:
Người vàng thế mạng 2 pho
Lư hương bằng bạc 1 chiếc
Bình hoa bằng bạc 1 đôi
Lụa ta (thổ quyến) 30 tấm
Ngà voi 14 đôi
Hương xông (huân hương) 12 bình
Hương vòng (tuyến hương) 20000 vòng
Trầm hương và tốc hương1465 24 cân
Lão Qua: Xem Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 3 (Chính biên XI, 13).
Tháng 12. Vương Thông nhà Minh tự rút quân về Bắc.
Bấy giờ vua Minh cho phép rút quân về Bắc, chiếu thư chưa sang đến nơi thì Thông đã tự ý kéo bộ binh qua Nhị Hà rút về trước, quân thủy theo sau.
Người nước ta vốn căm giận quân Minh tàn ngược, nên khuyên Vương giết chết chúng đi. Nhưng Vương dụ bảo mọi người rằng: “Trả thù, báo oán, là thường tình người ta; nhưng không muốn giết người, ấy là bản tâm của bậc nhân đức. Vả, người ta đã hàng mà mình giết đi thì chẳng còn gì ghê gớm hơn việc làm không lành ấy. Nếu cốt để hả nỗi lòng căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, chi bằng hãy cho hàng ức hàng vạn người được toàn tính mạng để dập tắt mối chiến tranh về sau, sử xanh ghi chép, nghìn thủa còn thơm, há chẳng tốt đẹp sao?”.
Vương bèn sai: về mặt thủy, cấp cho 500 trăm chiếc thuyền, giao cho bọn Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh: về mặt bộ, cấp cho lương thực và cỏ ngựa, cho bọn Sơn Thọ và Hoàng Phúc quản lĩnh. Số bị bắt và đầu hàng gồm hơn 2 vạn người, số ngựa bị tước gồm 2 vạn đều giao cho Mã Anh quản lĩnh. Tất cả bọn người Minh được thả dây đều tới quân doanh Bồ Đề lạy tạ Bình Định vương. Bọn Phương Chính vừa cảm động vừa hổ thẹn đến ứa nước mắt. Thông quản lĩnh bộ binh, làm đốc hậu, ở lại suốt cả buổi tối nói chuyện từ biệt với Vương rồi mới lên đường. Vương tiễn tặng Thông một cách ưu hậu. Người Minh trong ba thành Tây Đô, Cổ Lộng và Chí Linh lục tục rút theo.
Bọn Thông về đến Yên Kinh, bị quần thần nhà Minh đàn hặc: Thông bị tống giam vào ngục Cẩm Y, được tha tội chết, nhưng phải tước tên trong sổ làm quan và tịch thu gia sản.
Lời chua – Về Bắc: Sử Thông giám tập lãm có ba đoạn chép về việc này:
Đoạn trước chép: “Được tin Liễu Thăng thua và chết trận, Thông sợ, lại nhử cho Lê Lợi giảng hòa và bảo Lê Lợi tìm lập con cháu họ Trần. Thông bèn lập đàn, với quân, dân và quan lại dưới quyền mình, làm lễ minh thệ với Lê Lợi về việc rút quân. Nhân đó, Thông vì Lê Lợi mà đạo đạt tờ biểu1466 dâng lên vua Minh. Rồi Thông bèn rút quân về nước”.
Đoạn thứ hai chép: “Vua Minh sắc sai Vương Thông, Mã Anh luôn với quan lại ba ti1467 , các vệ, các sở và các phủ, châu, huyện phải rút hết quân và dân về Bắc. Chiếu thư
chưa sang đến nơi, Thông đã do đường bộ kéo về Quảng Tây; bọn Trần Trí, Mã Kỳ và Sơn Thọ do đường thủy về Khâm Châu. Số quan lại, quân, dân nhà Minh được về nước là hơn 86000 người; còn số bị Lê Lợi bắt sống và giam giữ không biết bao nhiêu mà kể”1468 .
Đoạn sau chép: “Đình thần nhà Minh bàn luận cho rằng Vương Thông thì bỏ mất đất, tự tiện giảng hòa; Mã Kỳ thì rông rỡ bạo ngược, gây nên biến cố: cả hai đều nặng tội nhất. Nhà vua đều không quở trách, chỉ tống giam dài hạn để đợi ngày xử tử mà thôi”.
Minh sử thông giám kỷ sự chép: “Thông đến kinh đô1469 rồi, quần thần nhà Minh tới tấp dâng tấu sớ lên đàn hặc Thông và bọn Mã Anh, Mã Kỳ, Sơn Thọ. Hình quan trong triều làm việc xét hỏi, bọn Thông đều thú nhận cả. Định nghị cho rằng Thông thì phạm tội không giữ quân luật, làm thiệt quân và bỏ mất đất; Sơn Thọ thì phạm tội che chở bênh vực cho bọn phản nghịch1470 , Mã Kỳ thì làm kích động gây biến ở nơi phiên thuộc. Tất cả đều đáng luận vào tội xử tử. Vua Minh xuống chiếu: tống giam Thông vào ngục và tịch thu gia sản; còn bọn Mã Anh cũng đều phạt tội có nặng nhẹ khác nhau. Sau đó Lê Lợi sai đưa trả 157 quan lại, 15170 lính thú, và 1200 ngựa; còn số người bị giữ không cho về nước không biết bao nhiêu mà kể”.
Vương bá cáo cho mọi người trong kinh đô và ngoài các lộ đều biết về việc cả nước đã được yên hẳn.
Làm bài Đại cáo bảo cho mọi người trong kinh đô và ngoài các lộ đều biết về việc người Minh đã giảng hòa, rút về nước, Nam Bắc đã thôi việc binh đao, trong thiên hạ đã được đại định. Bài ấy1471 đại lược thế này1472 :
Việc làm nhân nghĩa, cốt ở yên dân. Quân thương dân, đánh kẻ có tội, nước phải trừ lũ bạo tàn.
Nay nghĩ: Đại Việt ta thực là một nước văn hiến1473 . Từ Triệu (207-11 tr.c.ng.), Đinh (968-979), Lý (1010-1224), Trần (1225-1399) gây dựng nước ta, cùng với Hán1474 , Đường (618-907), Tống (960-1279), Nguyên (1260-1368) mỗi đằng làm vua một nước.
Mới đây, vì chính sự họ Hồ (1400-1407) phiền nhiễu hà khắc đến nỗi làm cho lòng dân oán giận chia lìa, người Minh dòm được kẻ hỡ, nhân đó mới sang rắc độc khắp dân ta. Đảng ác ôm lòng gian tà, rút cục cũng chỉ để bán nước. Chúng gạt trời, lừa dân, bày mưu quỷ quyệt hàng muôn hình nghìn trạng; luôn luôn gây hấn, dấy binh đao, hàng hai mươi năm đầy tội ác! Làm bại hoại thương tổn nhân nghĩa, khiến cho khí sống trong trời đất hầu như muốn ngừng! Sưu cao, thuế nặng, vét vơ của nả chằm núi không bỏ sót tí gì! Thần và người đều căm giận, trời đất không thể dung tha.
Ta đây, nổi lên từ Lam Sơn, náu thân nơi đồng hoang cỏ rậm. Lòng đau, đầu nhức [vì thuương dân lo nước] hàng hơn mười năm; nằm gai, nếm mật [để mưu diệt thù, phục quốc] không phải chỉ có
một ngày. Khi cờ nghĩa kéo lên, chính là thế giặc đang mở rộng. Hồi ở Linh Sơn1475 , lương cạn hàng mấy tuần1476 . Khi đóng tại Côi Huyện1477 , quân không còn một lữ1478 !
Giơ sào lên làm cờ1479 quân lính là do nhân dân từ bốn phương họp lại. Coi quân sĩ như tình cha con, một lòng khăng khít, dù có một vò rượu cũng cho hòa với nước sông để mọi người cùng hưởng1480 .
Cho nên, cuối cuùng có thể dùng nghĩa cả mà thắng hung tàn, đem chí nhân mà thay cường bạo. Quân Minh kia, trí thuật đã cùng, sức lực lại kiệt, bó tay đợi bại vong. Chúng ta mưu tính đánh giặc cốt là chinh phục lòng người, nên không cần đánh mà chúng phải tự khuất phục. Những tên đầu sỏ của giặc đã bị bắt sống, chúng đã trở thành đám tàn quân, ngoe nguẩy đuôi, xin thương xót. Là bậc thần võ không muốn giết người, ta cũng làm theo lòng hiếu sinh của Thượng đế1481 .
Tham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ trước được cấp hơn 500 chiếc thuyền, đã qua sông mà còn hồn xiêu phách lạc! Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh lại được cấp hơn vài nghìn ngựa, đã về đến nước mà còn chột dạ, sởn gai! Giặc đã tham sống sợ chết, thành thực xin hòa; ta cốt giữ quân vẹn toàn, muốn cùng nhân dân yên nghỉ.
Than ôi! Với chiếc nhung y1482 , dẹp yên cả nước, công lao lập được, không gì sánh tày! Bốn biển êm mãi từ đây, nay tuyên bố bài Đại cáo đổi mới.
Lời chua – Côi huyện: Theo Sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh toàn thư của nhà Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 12 (1414), đặt ti tuần kiểm ở Côi huyện thuộc châu Ninh Hóa; năm Vĩnh Lạc thứ 17 (1419) lại cho Côi huyện sáp nhập châu Ninh Hóa; năm Vĩnh Lạc thứ 20 (1422) sai Sơn Thọ đem sắc thư sang dụ Bình Định vương; nhưng Vương không theo, trốn sang Lão Qua, rồi lại quay về châu Ninh Hóa.
Nay xét Lê sử và Lam Sơn thực lục: Năm ấy1483 , Vương từ Ba Lẫm1484 và Quan Da1485 dời đi Khối Sách. Vậy châu Ninh Hóa có lẽ thuộc Thanh Hóa, mà Côi huyện thì do châu Ninh Hóa này kiêm lỵ chăng? Thay đổi hay theo cũ, sự thực ra sao, không rõ. Có người ngờ rằng Côi huyện có lẽ tức là Khối Sách, nhưng chưa biết có đúng không.
1390 Tục gọi đền Kiếp hoặc đền Kiếp Bạc.
1391 Viên tướng trấn giữ một địa điểm quân sự. Các chỗ khác trong Chính biên quyển thứ 14 này hễ chép là “thủ tướng” đều là cùng một nghĩa này cả.
1392 Nguyên văn là “trượng sách”, lấy điển trong Hậu Hán thư , Đặng Vũ nghe biết Hán Quang Vũ đã thu phục được Hà Bắc, bèn cầm roi ngựa đến cửa trại quân, khuyên Quang Vũ nên mời đón các bậc anh hùng ra giúp việc. Đây chỉ có ý nói Nguyễn Trãi từ xa tìm đến Lỗi Giang, bày kế cứu nước, chứ thực tế chưa chắc bấy giờ Nguyễn Trãi có đi ngựa và cầm roi ngựa hay không.
1393 Vào làm tể tướng, tức là nhập nội hành khiển.
1394 Bức thư này cũng như hai bức thư sau, nguyên văn đều bằng chữ Hán, chúng tôi cứ theo bản Cương mục đã trích lược mà dịch ra; nếu muốn biết toàn văn thì xem Ức Trai dị tập quyển IV (phần Quân Trung từ mệnh ).
1395 Chỉ Vương Thông.
1396 Nguyên văn là “xuất khổn”. Ý nói được cử làm tướng ở ngoài, cầm nắm toàn quyền về quân sự.
1397 Người bản quốc theo giặc Minh để làm quan.
1398 Chỉ cha con Hồ Quý Ly.
1399 Toàn văn bằng chữ Hán có in trong Ức Trai dị tập quyển IV, tờ 24.
1400 Ý nói là một nước có văn hóa tốt đẹp, đã từng thông hiểu kinh Thi , kinh Thư của nhà Nho.
1401 Chỉ Vương Thông.
1402 Toàn văn bằng chữ Hán có in trong Ức Trai dị tập quyển IV, tờ 24b-26a.
1403Cương mục in là “Đao doanh”.
1404 Bộ Lễ trông coi việc thi cử, lễ nghi, điển chương, tiệc yến, ấn phủ. Thượng thư là quan đứng đầu một bộ, hàm tòng nhị phẩm.
1405 Chỉ Bình Định vương Lê Lợi.
1406 Lý Triện hy sinh ở trận Từ Liêm (Chính biên XIV, 6).
1407 Hoàng Mai nay thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
1408 Huyện Lôi Dương nay không còn: Đất huyện Lôi Dương cũ, nay thuộc huyện Thọ Xuân và huyện Thường Xuân tỉnh Thanh Hóa.
1409 Sử ký chép Nguyễn Đức Huân là thổ quan hữu bố chính sứ (quyển X, tờ 48a); như vậy tên Huân này là người bản quốc, làm quan với nhà Minh, lên đến chức hữu bố chính sứ.
1410 Xem “Lời chua” ở sau của Cương mục .
1411 Xem “Lời chua” của Cương mục và chú giải của dịch giả ở sau.
1412 Ngày nay Trung Quốc vẫn để tên hai tỉnh này như trước.
1413 Theo Sử ký X, 48a, thì cửa ải Lê Hoa thuộc Tuyên Quang. Như vậy tức là thuộc tỉnh Lào Cai ngày nay, vì hồi bấy giờ địa bàn Tuyên Quang gồm cả Lào Cai.
1414 Cũng như ngày nay nói “tự giới thiệu” hoặc “xung phong”.
1415 Cũng gọi Thương Sơn Tứ hạo, bốn nhà ẩn sĩ hồi đầu đời Hán: Đông viên công, Ỷ lý quý, Hạ hoàng công và Lộc lý tiên sinh.
1416 Tên tự của Nghiêm Quang, người Dư Diêu đời Đông Hán, thuở nhỏ cùng học với Hán Quang Vũ (25-57). Khi Quang Vũ lên làm vua, Tử Lăng đổi họ, thay tên, di ẩn, không chịu gặp mặt nhà vua. Sau bị Quang Vũ lùng tìm được bổ làm quan, nhưng Tử Lăng nhất định không chịu nhận, cứ cày ruộng ở núi Phú Xuân.
1417 Ý nói Bình Định vương sở dĩ thành công trong việc bình Ngô là vì biết khiêm tốn cầu hiền.
1418 Các tướng cai quản quân đội như Thiếu úy và Chấp lệnh, … ở đương thời.
1419 Pháp luật nhà binh. Ý nói khi hành quân, kẻ nào không tuân theo mệnh lệnh cấp chỉ huy thì tất phải chết.
1420 Hạng bà đồng, bà cốt làm tà thuật để nguyền rủa người ta. Đây nói chung những kẻ đồng cốt phao tin nhảm hoặc tung ra những lời mê tín có nguy hại đến công cuộc kháng chiến và kiến quốc ở đương thời.
1421 Đây chỉ những kẻ theo tà thuật dị đoan có những ngôn ngữ, hành động làm cho dân chúng hoang mang.
1422 Chỉ cha con Hồ Quý Ly.
1423 Ý nói làm việc nhẫn tâm, không hợp tình hợp lý.
1424 Pháo, theo nghĩa cổ, là một thứ chiến cụ của người xưa: cái “máy” bắn đá. Đây có thể là một thứ pháo ở đời Bình Định vương dùng để ra hiệu lệnh hoặc báo động…
1425 Cũng có âm là Tham.
1426 Xem chú giải số 3 ở Chính biên III, 27.
1427 Nay là huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
1428 Theo sự cư trú ở đâu thì kẻ là người ở đó, chứ không căn cứ vào nguyên quán.
1429 Sách gồm hai quyển, tựa của tác giả viết năm 1789.
1430 Tức Bùi Huy Bích (1744-1818), tự Hi Chương, hiệu Tồn Am hoặc Tồn Ông, người xã Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay, cư trú tại xã Thịnh Liệt (Sét) thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, đỗ nhị giáp tiến sĩ (1769), làm quan với Lê đến chức đốc đồng, tức Kế liệt hầu. Tác phẩm có Lữ trung tạp thuyết, Tồn Am văn tập, Nghệ An thi tập . Ngoài ra Tồn Am còn sưu tập được các thơ văn chữ Hán của thi nhân và văn gia Việt Nam qua các thời đại mà soạn thành hai tập là Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển .
1431 Nguyên văn là “quốc sơ”, vì Bùi Huy Bích nhận mình là bầy tôi nhà Lê, nên gọi triều Lê là “quốc” (nước).
1432 Nối tiếp mà tu sửa lại.
1433 Ngày nay là tỉnh Lai Châu.
1434 Cuộc hội minh này là một chiến thắng lịch sử vô cùng vẻ vang của Việt Nam, mà cũng là một lối “đầu hàng không điều kiện” vô cùng nhục nhã của quân Minh xâm lược. Vì rằng, theo lối chiến tranh thời xưa, khi giao chiến, một bên cố giữ thành, một bên hạ được thành, buộc chủ tướng đối phương phải ra hội thề ngay ở bên thành mà mình đã cố thủ, đó là một điều rất sĩ nhục theo quan niệm của các danh tướng xưa, nhất là những tướng ở thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Cho nên đối với những cuộc hội minh ngay ở bên thành sau khi hai bên đã giao chiến, thời Xuân Thu cho là một việc rất đáng hổ thẹn.
1435 Nguyên văn là “thanh dã”, có ý dọn sạch cả đồng nội, không để lại một tí thóc lúa hoa màu gì để giặc có thể lợi dụng làm lương thực được. Đó tức như lối “tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống” ở đời sau.
1436 Đây theo Cương mục viết “chấm thủy bên chữ lệnh” nên phiên âm là “Linh” còn Sử ký X, 49 in “chấm băng” bên chữ lệnh thì lại là “Lãnh”.
1437 Quân cưỡi ngựa, vì đi nhanh hơn, nên đội quân sau (hậu đội) không theo kịp để liên lạc cứu ứng cho nhau.
1438 Binh phù để làm tin trong quân.
1439 Chức của Liễu Thăng.
1440 Vì trong toán viện binh bị bại vong của Minh có Lý Khánh là Binh Bộ thượng thư và Hoàng Phúc là Công Bộ thượng thư, sau khi Khánh chết và Phúc bị bắt, hai quả ấn bạc của chúng mới lọt vào tay quân ta.
1441Sử ký X, 51 chép ngày 12, tháng 12 năm Đinh Mùi (1427) là ngày Thông rút quân về nước.
1442 Nay ở địa phận huyện Ý Yên, Nam Định (Xem Chính biên XII, 28).
1443 Chỉ việc Bình Định vương chủ trương trước hãy tiêu diệt quân cứu viện thì tự khắc thành Đông Quan phải đầu hàng, chứ không nghe theo mưu kế của số đông tướng hiệu bàn đánh thành trước.
1444 Đây là lời của sử Thông giám tập lãm (1767, dưới triều Mãn Thanh), cũng như Minh sử và Minh sử thông giám ký sử dưới đây, đứng trên lập trường của phong kiến Minh và phong kiến Thanh mà chép về Việt Nam, nên gọi phía nghĩa quân Lam Sơn là “địch”, kêu tướng và quân của tập đoàn phong kiến Minh là “quan quân”.
1445 Đây là lời của sử Thông giám tập lãm (1767, dưới triều Mãn Thanh), cũng như Minh sử và Minh sử thông giám ký sử dưới đây, đứng trên lập trường của phong kiến Minh và phong kiến Thanh mà chép về Việt Nam, nên gọi phía nghĩa quân Lam Sơn là “địch”, kêu tướng và quân của tập đoàn phong kiến Minh là “quan quân”.
1446 Xem Chính biên XIII, 24-25.
1447 Nguyên văn là “phiêu”, một thứ binh khí xưa, hình giống đầu cái mâu, có cán dài bằng tre hoặc gỗ, cuối cán có vòng và dây để người cầm lao khi phóng xong thì giật lại. Người sử dụng lao có thể từ xa mà phóng để giết chết địch.
1448 Xem “Lời phê” của Tự Đức ở dưới.
1449 Nay thuộc tỉnh Lào Cai.
1450 Chỉ Liễu Thăng.
1451Sao , cũng có âm là “tiêu”.
1452 Chỉ việc chép về Liễu Thăng trong sử Thông giám tập lãm (Xem “Lời chua” về cửa ải Ải Lưu ở trên).
1453 Nguyên văn bằng chữ Hán và nội dung làm lời Trần Cao. Đây là bản trích lược.
1454 Vua đầu triều Minh, niên hiệu là Hồng Vũ (1368-1398).
1455 Một tên khác của Trần Dụ Tông (1341-1369), dùng để ngoại giao với Minh.
1456 Chỉ việc sai Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích sang sứ nhà Minh năm Mậu Thân, 1368 (Chính biên X, 21).
1457 Cha con Hồ Quý Ly.
1458 Tức Minh Thành Tổ, niên hiệu là Vĩnh Lạc (1403-1424).
1459 Xem “Lời chua” ở dưới của Cương mục .
1460 Chỉ Minh Tuyên Tông, niên hiệu Tuyên Đức (1426-1435).
1461 Xem chú giải về “bồi thần” ở Chính biên XII, 2.
1462 Niên hiệu là Kiền Long (1736-1795).
1463 Tức là Quang Trung (1788-1792) Nguyễn Huệ. Vì Tự Đức coi Nguyễn Huệ là kẻ thù và triều Tây Sơn không phải là chính thống, nên mới kêu là “ngụy”.
1464 Nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương.
1465 Thứ gỗ thơm lấy ở cây trầm tươi hoặc cây trầm mục để đốt cho thơm. Trầm hương khác với tốc hương ở chỗ: bỏ xuống nước mà chìm, gọi là “trầm”; không chìm, gọi là “tốc”.
1466 Tức tờ biểu do Trần Cao đứng tên như trên đã chép.
1467 Ti đô chỉ huy sứ giữ về quân sự, ti bố chính giữ về phú thuế và tài chính, ti án sát giữ về pháp luật hình ngục.
1468 Trong Minh sử (của Phó Duy Lân, in năm 1936), truyện Vương Thông (tr. 3098-3099) có ghi rõ con số đầy đủ là: các quan lại văn võ và quân sĩ nhà Minh được về cộng 86 640 người; còn đến vài vạn người nữa thì bị giữ lại không được về.
1469 Yên Kinh.
1470Minh sử thông giám kỷ sự chỉ phía Bình Định vương.
1471 Tức là bài “Bình Ngô đại cáo”.
1472 Nguyên văn bằng chữ Hán, viết theo thêể biền ngẫu đối nhau. Cương mục chỉ chép sơ lược. Muốn biết toàn văn, xin xem Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử (của Lê Quý Đôn) và Hoàng Việt văn tuyển , …
1473 Văn: sử sách điển chương; hiến: người hiền.
1474 Tiền Hán: 204-8 tr.c.ng., Hậu Hán: 25-220 s.c.ng.
1475 Cũng gọi Chí Linh Sơn, một núi ở địa phận châu Lang Chánh thuộc Thanh Hóa.
1476 Mười ngày là một tuần. Khi đóng ở Chí Linh Sơn, nghĩa quân hết lương ăn đến hơn hai tháng (xem Chính biên XII, 16).
1477 Xem “Lời chua” ở sau của Cương mục .
1478 Theo binh chế xưa, một lữ gồm 500 quân.
1479 Nguyên văn là “yết can vì kỳ”, ý nói trong lúc vội vàng cử sự, chỉ kịp giơ cây sào lên để hiệu triệu mọi người.
1480 Nguyên văn là “đầu giao hưởng sĩ”, do điền ngày xưa có một tướng giỏi, khi cầm quân đi trận, có người đem biếu một bầu rượu, tướng ấy sai trút cả xuống sông để cho quân sĩ múc lấy dòng nước sông mà cùng uống. Ý nói người làm tướng có đức công bằng và tình thân mật, từ một miếng ăn miếng uống cũng chia sẻ cho quân đội dưới quyền mình.
1481 Ý nói: Bình Định vương thể theo tấm lòng rộng rãi bao la của Trời muốn cho muôn vật đều được sinh sống, nên để cho người Minh được toàn hoạt về nước sau khi chúng đã đầu hàng.
1482 Thứ quân phục mặc khi đi trận.
1483 Tức năm Nhâm Dần (1422).
1484 Xem “Lời chua” của Cương mục ở Chính biên XIII, 13.
1485 Tức là Quan Du. Xem Chính biên XIII, 13, 16-18.