K h â m Đ ị n h V i ệ t S ử T h ô n g G i á m C ư ơ n g M ụ c
Chính Biên
Quyển thứ 33
Từ Quý Mão, Lê Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ nhất (1663) đến Ất Mão, Lê Gia Tông, năm Đức Nguyên thứ hai (1675), gồm 13 năm.
Quý Mão, Huyền Tông Mục hoàng đế năm Cảnh Trị thứ nhất (1663). (Thanh, năm Khang Hy thứ 2).
Tháng giêng, mùa xuân. Tế Nam Giao.
Sai bọn đô đốc Trịnh Khiêm vào kinh thành quản lãnh quân bốn vệ để chầu chực bảo vệ nhà vua.
Bấy giờ nhà vua mới lên ngôi, còn nhỏ tuổi. Trịnh Tạc sai: Trịnh Khiêm tả đô đốc, Trạc quận công; Hoàng Sĩ Khoa, hữu đô đốc, Phổ quận công; Nguyễn Thụ, đô đốc đồng tri, Cường quận công; Trịnh Doanh đô đốc thiêm sự, Giao quận công, bốn người này vào kinh thành quản lãnh quân bốn vệ, ngày đêm chầu chực bảo vệ nhà vua.
Lời chua – Bốn vệ: Đều là vệ binh trong cung điện.
Theo “Binh chế chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú thì vệ binh trong cung điện là: ty Thị kiệu số quân 50 người, các đội trong Ty Thị cận hiệu lực, vệ Cẩm Y, ty Kim Ngô tả loan giá, ty Kim Ngô hữu loan giá, mỗi đội 40 người; các cung Cửu Tiên tả và Cửu Tiên hữu mỗi cung 36 người; các đội Tả trực và Hữu trực mỗi đội 40 người; đội Thiên Hùng số quân 30 người. Còn danh hiệu bốn vệ thế nào không rõ.
Tháng 5, mùa hạ. Hạ sắc lệnh khuyên răn các quan trong Ngự sử đài; khảo xét các quan thú lệnh2790 siêng năng hoặc lười biếng.
Ra sắc lệnh cho Ngự sử đài và các viên giám sát ở 13 đạo; xét hỏi đơn từ kiện tụng, phải tuân theo luật lệnh, giữ được thanh liêm cần mẫn, không được để công việc ứ đọng, không được làm trái với pháp lệnh đã định.
Lại hạ lệnh cho hai ty Thừa chính, Hiến sát các xứ; khảo xét các viên phủ huyện thuộc dưới quyền mình, xem người nào biết hết lòng thương yêu nuôi dưỡng dân, thi hành chính sự được công bằng, xét xử kiện tụng được hợp lý; người nào hà khắc, tham ô, bỉ ổi, chính sự lười biếng bê trệ. Các quan hai ty đều kê tên các hạng phủ huyện ấy trình bày, để sẽ thi hành việc truất bãi hoặc cất nhắc.
Tháng 6. Bắt đầu sai sứ thần sang nhà Thanh.
Lúc ấy nhà Minh đã mất, nhà Thanh vào Yên Kinh xưng hoàng đế. Về phần nhà Lê chưa từng sai sứ thần sang thông hiếu với nhà Thanh. Năm trước, triều đình nhà Thanh cho người đem sắc thư dụ bảo và tặng cho bạc và lụa. Vì thế, mới bắt đầu sai chánh sứ Lê Hiệu, phó sứ Dương Hạo và Đồng Tồn Trạch sang nhà Thanh nộp lễ cống hàng năm, tạ ơn việc tặng bạc, lụa và cáo phó việc Lê Thần Tông mất.
Lời chua – Lê Hiệu: Người xã Quan Trung, huyện Đông Thành, đỗ tiến sĩ khoa Quý Mùi (1643) năm Phúc Thái triều Lê Chân Tông.
Tồn Trạch: Người xã Triều Dương, huyện Chí Linh, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1648) năm Phúc Thái.
Dương Hạo: Người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm2791 , đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640), năm Dương Hòa triều Lê Thần Tông.
Thủy Tai.
Nước sông Nhị tràn ngập, ruộng lúa phần nhiều bị lụt, nhất là hai phủ Khoái Châu và Thường Tín càng bị nước phá hại nhiều hơn.
Lời chua – Sông Nhị: Tức sông Phú Lương, xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 2 (Chb, II, 13).
Khoái Châu: Xem Lý Cao Tông, năm Trị Bình Long Ứng thứ 4 (Chb. V, 32).
Thường Tín: Tên phủ, thuộc Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Hà Nội2792 .
Cấm thi hành luật chuộc tội.
Theo chế độ cũ, 5 luật hình2793 đều được phép chuộc tội. Đến nay hạ lệnh cho các quan xét hình ngục ở trong kinh ngoài các đạo: những phạm nhân nào không được dự vào bát nghị2794 , đều phải theo hình luật đã luận tội nặng hay nhẹ mà thi hành, không được phép chuộc.
Lời chua – Thể lệ chuộc tội: Theo “Hình luật chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, thì danh lệ tiền luật triều Tiền Lê2795 người phạm tội được nộp tiền chuộc như thế này:
Tội phạt đánh bằng trượng được phép nộp tiền chuộc: Nếu người phạm tội là quan tam phẩm thì cứ mỗi trượng nộp chuộc 5 tiền, tứ phẩm 4 tiền, ngũ và lục phẩm 3 tiền, thất và bát phẩm 2 tiền, cửu phẩm và thứ nhân 1 tiền.
Tội đồ được phép nộp tiền chuộc: Phải đồ làm lính chăn voi (tượng phường binh) nộp chuộc 60 quan, phải đồ làm lính đồn điền nộp chuộc 100 quan.
Tội lưu được phép nộp tiền chuộc: Lưu đi cận châu2796 nộp tiền chuộc 130 quan, Viễn Châu2797 320 quan.
Tội tử hình nộp tiền chuộc 330 quan.
Bát nghị (8 tiêu chuẩn được viễn dẫn ra trong khi nghị tội):
1. Nghị thân (phạm nhân là người họ thân của vua chúa).
2. Nghị cố (phạm nhân trước kia giúp vua chúa đã lâu, được vua chúa tin yêu).
3. Nghị hiền (phạm nhân là người có đức hạnh đáng làm khuôn thước).
4. Nghị năng (phạm nhân có tài năng về quân sự hoặc chính trị vượt hơn mọi người).
5. Nghị công (phạm nhân có công đánh giặc hoặc mở mang bờ cõi trong nước).
6. Nghị quý (phạm nhân có chức tước cao).
7. Nghị cần (phạm nhân đã từng cần mẫn khó nhọc khi làm việc ở trong nước hoặc đi sứ ở nước ngoài).
8. Nghị tân (Phạm nhân là dòng dõi con cháu của vua các triều trước, giữ việc tế tự ở miếu thờ các vua triều trước. Người này được vua chúa đương thời coi như người khánh, không dám coi là bầy tôi, nên gọi là “Tân”).
Tiêu chuẩn bát nghị kể ở trên, chép trong sách Chu Lễ.
Tháng 7, mùa thu. Ban bố rõ giáo điều cho trong nước.
Đại lược giáo điều nói: Làm bầy tôi phải hết lòng trung với vua; làm con phải giữ đạo hiếu; anh em hòa thuận với nhau; vợ chồng kính yêu lẫn nhau; bè bạn giữ lòng tin thực để giúp đỡ nhau làm điều hay; cha mẹ sửa mình để dạy bảo con; thầy trò dùng đạo nghĩa đối đãi với nhau; người gia trưởng trước hết tự mình giữ lễ nghĩa để dẫn đường cho người trong nhà; con em phải tôn kính cha anh; đàn bà không được trái đạo với chồng. Ở trong hương đảng thì người lớn người bé yêu kính nhau; cùng nhau mở mang việc lợi, trừ bỏ việc hại; không được cậy mình mạnh mà lấn áp người yếu, không được bầy ra kiện tụng để làm lợi riêng; chớ chiếm đường sá làm vườn tược, chớ lấn khe cừ làm hồ ao; cùng nhau hưởng chung mối lợi của núi, rừng, sông, chằm; chọn người đứng đắn ra làm người đứng đầu ở phường, trang, thôn, xã; nghề nghiệp sinh sống cần phải chăm chỉ siêng năng; lệ lượt hương ẩm cần phải sẻn nhặt, chớ dựa quyền thế người khác hoặc cậy quyền thế mình mà gởi gắp việc kiện tụng; chớ cố ý đem người già người yếu mà sinh sự để gieo vạ cho người lương thiện; cầu cống đường sá, chỗ nào hư hỏng thì tùy tiện sửa chữa bồi đắp; người giữ việc lại điển2798 không được điên đảo sổ sách giấy tờ; không người nào được xâm phạm phá hũy lăng miếu, đền thờ, mộ địa; con trai, con gái, chớ làm đồng cốt theo dị đoan; nhà có việc tang chớ nhân ngày trung nguyên2799 bày ra cúng phật; chớ ngạo mạn với quan trưởng; chớ dụ dỗ người đem bán, việc dựng vợ gả chồng nên phân biệt nòi giống, chớ tính toán tiền tài; lễ tang mà tùy theo cảnh nhà giàu hay nghèo, chớ sách nhiễu về việc ăn uống.
Giáo điều này tất cả 47 điều, ty Thừa chính, Hiết sát các xứ và phủ, huyện, châu, mỗi nha môn phải sao một bản treo ở công đường làm việc. Ở các làng, thì xã trưởng chép vào một tấm biển treo ở trong đình, cứ ngày hương ẩm2800 hội hợp già trẻ, trai gái trong làng, rồi đem giáo điều giảng đọc hiệu bảo, khiến mọi người biết mà khuyên răn để tiến lên phong tục tốt đẹp.
Lời phê – Giáo điều không gì trước hơn là “làm bầy tôi phải hết lòng trung với vua”. Khi mở sách ra đã thấy nghĩa câu ấy đứng hàng thứ nhất. Nhưng thử hỏi lúc bấy giờ đã thi hành điều ấy hay chưa2801 . Còn các điều khác không cần gì phải kể đến. Tháng 8. Hạ lệnh: phân biệt đối xử với những người nhà Thanh đến trú ngụ.
Bấy giờ người nhà Thanh phần nhiều đến trú ngụ ở dân gian, làm cho phong tục hỗn độn. Triều đình bèn hạ lệnh cho ty Thừa chính các xứ xét trong hạt mình, nếu có khách trú ngụ là người nhà Thanh thì phải tùy tiện đối xử, để phân biệt phong tục nước ngoài.
Tháng 10, mùa đông. Nhắc rõ lệnh cấm người theo tả đạo Gia tô.
Trước đây, có người Tây Dương gọi là Hoa lang di, vào ở trong nước ta đem đạo dị đoan2802 của Gia tô lừa dối dụ dỗ làm ngu muội dân chúng, những người quê mùa nông nổi phần nhiều tin mộ đạo ấy, họ lập tòa giảng nghe giảng đạo, sự mê hoặc đắm đuối mỗi ngày càng sâu rộng. Trước đã hạ lệnh đuổi người truyền đạo ấy đi, nhưng còn bọn tiểu nhân thấm sâu vào tập tục ấy chưa thay đổi được, nên đến nay lại hạ lệnh cấm.
Lời chua – Tây Dương: Nhất thống chí nhà Thanh chép: Năm Vạn Lịch thứ 9 (1581) triều nhà Minh, Tây Dương có Lỵ Mã Đậu2803 mới vượt biển đến vùng Hương Sơn thuộc Quảng Châu; đến năm thứ 29 (1601) Lỵ Mã Đậu bèn vào Yên Kinh, đồ đệ của ông ta theo đến rất đông, đều tôn sùng đạo thiên chúa, họ rất có tài về việc chế tạo và sáng tác.
Hoa Lang: Theo “Truyện ngoại quốc” trong Minh sử. thì Hoa Lang tức là Hòa lan, cũng ở Tây Dương, tập tục đọc sai là Hoa lang. Sách kiên biểu bí lục của Chử học Giá nhà Thanh chép: cuối năm Gia Tĩnh (1522 – 1566) triều Minh, Mã Đậu họp tập người đồng bạn đi tàu vượt biển du lịch các nước gồm 6 năm, đến nước An Nam rồi vào địa giới Quảng Đông.
Gia – tô: Theo sách Dã Lục2804 , thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là Y-nê-xu2805 lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân2806 và xã Trà Lũ huyện Giao Thủy2807 , ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia tô.
Bổ dụng Đinh Văn Tả giữ công việc đô tổng binh sứ ở xứ Yên Quảng.
Địa phận xứ Yên Quảng ở ven biển, giáp với châu Khâm nhà Thanh, thường có giặc biển quấy nhiễu, triều đình bèn sai Văn Tả trấn giữ đất này.
Lời chua – Yên Quảng: Tức xã Yên Bang xưa, xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 16, 25, 35).
Tổng binh: Hồi đầu triều Lê đặt chức tổng binh, niêu hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) thêm vào là đô tổng binh sứ2808 . Chức này phẩm trật chánh tam, tức là trấn thủ trong một trấn.
Tháng 11. Miễu trừ hoặc giảm nhẹ tiền quý, tiền thuế cho dân, có chỗ nhiều chỗ ít khác nhau.
Vì cớ có nạn thủy tai.
Lời chua – Quý và thuế: Tính từng suất đinh mà đánh thuế gọi là “quý”; đo đạc ruộng công mà đánh thuế gọi là “thuế”.
Giáp Thìn, năm thứ 2 (1664). (Thanh, năm Khang Hy thứ 3).
Tháng 2, mùa xuân. Định rõ lại điều lệ thi hội.
Từ năm Quang Hưng (1578 – 1579) trở về sau khôi phục lại chế độ cũ, cứ ba năm một lần thi đại tỵ, nhưng quy chế thể thức trường thi hãy còn sơ lược. Đến nay, mới sang định rõ lại từng điều, từng khoản. Việc ấn định này, từ đây trở về sau bèn giữ làm thể lệ tường hành.
Lời chua – Niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463) đời Lê Thánh Tông bắt đầu định thể lệ 3 năm một lần thi đại tỵ, sau giữ làm lệ thường.
Niên hiệu Quang Hưng năm thứ 3 (1580) đời Lê Thế Tông khôi phục lại khoa thi hội.
Theo “Khoa mục chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, năm ấy định thể lệ thi hội như sau:
Trường thi hội đặt ở trước sân điện Giảng Võ, bốn chung quanh rào hai lần giậu kín, một lần giậu thưa, hào rãnh ở chung quanh trường đều bố trí một lượt chông chà.
Giữa trường thi làm 4 vì, có một ngôi nhà làm công đường của thí viện, còn viện Đồng Khảo. viện Giám khảo mỗi viện đều ở riêng một nơi.
Các cử nhân2809 chiếu theo tên mình đã viết vào thẻ cắm ở chỗ nào thì chia nhau ngồi ở chỗ ấy mà làm bài, mỗi chỗ ngồi đều che bằng lều tre.
Các viên quan tham dự công việc trong trường thi có: một viên Đề điệu, dùng bậc đại thần trong hàng quan võ; một viên Tri cống cử, dùng viên quan trong hàng Thượng thư hoặc Đô Ngự sử đài; hai viên Giám thí, dùng các viên quan trong hàng Thị lang hoặc phó Thiêm đô ngự sử; viên đóng ấn vào quyển thi dùng viên quan Thượng bảo tự khanh, viên quan này phụng lệnh ấn ngự bảo đóng vào quyển thi và niêm phong quyển.
Văn thể dùng giọng hồn hậu tao nhã, cấm dùng lời phù phiếm, đơn bạc, hiểm hóc, trúc trắc. Kỳ thi đối sách trình bày công việc hiện thời, cần phải châm chước cho đắc thể, thích ứng với sự thực, không được làm những lời quá khoe khoang.
Việc đằng lục2810 , đối đọc2811 , thì các kỳ đệ nhất, đệ nhị, đệ tam dùng nho sinh và sinh đồ các phủ, chiếu theo từng kỳ một mà thay đổi nhau; đến kỳ đệ tứ thì điều đem lại điển ở nha môn thay thế cho nho sinh, sinh đồ các phủ.
Còn như những việc kiểm xét sĩ tử khi mới vào trường, đi tuần chung quanh trường để phòng gian trá, niêm phong quyển thi, soạn số hiệu quyển thi, đưa quyển thi từ viện này đến viện khác, viết tên các sĩ tữ vào bảng để treo ở cửa trường và các vật dụng cung đốn, cũng đều có định thành điều khoản thứ mục.
Lời phê – Đối sách mà phải “châm chước cho đắc thể” , thế là mở ra thói a dua, chỉ vì e rằng sĩ tử làm văn lại nói động đến họ Trịnh đấy thôi. Học giỏi như Lưu Phần2812 mà thi khoa này tức nhiên cũng bị đánh hỏng. Còn đặt khoa cử cầu lấy nhân tài làm gì nữa?
Tân Vương Tạc vào chầu vua không phải lạy, tờ chương tấu không phải xưng tên, đặt chỗ ngồi ở bên tả chỗ ngồi của vua.
Tạc, vượt đẳng cấp bầy tôi, lấn uy quyền nhà vua, không kiên nể gì. Muốn tự gia phong cho mình được điển lễ đặc biệt, trước hết Tạc yêu cầu nhà vua ban tờ chiếu cho được ưu đãi, để che tai mắt người ngoài. Từ đây trở đi, thanh kiếm thái a, họ Lê nắm đằng lưỡi, họ Trịnh nắm đằng chuôi2813 , mất hết lễ nghi đường bệ2814 .
Lời phê – Không phải từ đây, mà đã nảy mầm từ lâu rồi. Cũng như băng tuyết đã báo dấu hiệu ngay từ khi mới có sương. Lời cẩn án – Theo lễ, thì bầy tôi không được vuợt quá chế độ, người nào vượt chế độ là người ấy không còn biết đến người trên mình nữa, tội ấy không còn gì lớn hơn. Nhà Lê suy yếu, chính quyền lọt vào tay Trịnh Tùng. Tùng tự gia phong cho mình lên tước vương, kể đã lấn quyền vượt phận quá đỗi. Đến như Tạc lại giã thác mệnh lệnh của vua mà tự gia cho mình điển lễ đặc biệt: vào chầu không lạy, chương tấu không xưng tên, đặt chỗ ngồi ở bên tả chỗ ngồi của vua. Những việc ấy, Đổng Trác, Tào Tháo nhà Hán2815 , Lưu Dụ nhà Tấn2816 chưa từng làm mà Tạc dám làm, Đổng Trác, Tào Tháo, Lưu Dụ chẳng qua chỉ không xưng tên trong tờ chương tấu, không đi rảo bước lúc ở triều đường và được đeo kiếm, đi giầy lên trên điện, thế mà sách Cương mục (của Chu Tử) còn chép đủ các tội ấy để tỏ rõ việc tiếm quyền của bọn này. Huống hồ Tạc là người hung hãn trái ngược quá chừng, tội của hắn không thể nào tha thứ được, cho nên chép ra đây để răn những kẻ không giữ đạo làm tôi. Tháng 4, mùa hạ. Thi khảo lại sinh đồ ở giữa bãi sa bồi sông Nhị.
Trrước đây, phép thi sơ lược rộng rãi, học trò phần nhiều mang theo bài cũ. Từ năm Canh Tý đến nay, đã nhiều lần có lệnh cấm ngăn, mà người được đỗ vẫn còn nhiều hạng người mượn tay người khác làm bài hộ, vì thế mà lời bàn tán của quần chúng xôn xao sôi nổi. Đến đây, triều đình sai quan thi khảo lại những sinh đồ đã lấy đỗ trong ba khoa: Đinh Dậu, Canh Tý và Quý Mão.
Đầu bài thi: Làm một bài thơ theo luật đường; ám tả một chương chính văn và đại chú trong tứ truyện. Người nào đỗ vẫn được giữ nguyên là sinh đồ; ngoài ra, những người không đỗ sẽ ở lại học tập ba năm và được miễn trừ tạp dịch; lại thi một lần nữa, nếu người nào không đỗ sẽ cho trở về hạng dân đinh để chịu tạp dịch. Lúc ấy, những người bị đánh hỏng đến quá một nữa.
Lời chua – Đinh Dậu: Tức năm Thịnh Đức2817 thứ 5 (1657) đời Lê Thần Tông, Canh Tý: Tức năm Vĩnh Thọ thứ 3 (1660) đời Lê Thần Tông. Quý Mão: Tức năm Cảnh Trị thứ nhất (1663) đời Lê Huyền Tông.
Sinh đồ: Học trò thi hương lọt được 3 kỳ gọi là sinh đồ, cũng như tú tài bây giờ.
Tháng 5. Được mùa to.
Bắt đầu ấn định phép ngũ lượng2818 .
Đầu niên hiệu Thịnh Đức, triều đình ban cái thăng công bằng đồng cho hai ti2813 ở các xứ, cái thăng ấy theo khuôn thước cũ đời Hồng Đức, mỗi thăng là 6 cáp gạo. Nay Phạm Công Trứ bàn theo trong kinh
sách, lấy trong ống hoàng chung chứa được 1.200 hạt thóc làm một thược, cứ 10 thược làm một cáp, 10 cáp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu làm 1 hộc. Còn như cái thăng công bằng đồng ban hành trước kia, không hợp với số lượng ấn định ấy, nghĩ xin dựa theo phép ngũ lượng cho đúc lại rồi ban hành.
Lời chua – Thịnh Đức (1653-1657): Niên hiệu Lê Thần Tông.
Ban hành thăng bằng đồng: Việc này sử cũ không chép.
Ngũ lượng: Tức thược, cáp, thăng, đấu, hộc.
Tháng 6. Định thể lệ tiền phạt, tiền bồi thường về những án nhân mạng.
Trong dân xã có người gian ác hung tợn gây ra án mạng, mà lúc ngày thường người cùng họ, cùng làng với hung thủ đã không biết răn bảo ngăn cấm, đến lúc xảy ra việc án mạng, lại không biết bắt hung thủ giải nộp lên quan, thì trong họ, trong xã đều phải phạt 50 quan tiền; còn tiền đền mạng thì thu ở người can phạm, nếu người can phạm không đủ sức nộp, thì lấy tiền phạt cấp cho bên có người bị hại làm tiền tống táng.
Lời chua – Tiền đền mạng: “Hình luật chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú chép: Năm Vĩnh Thọ thứ 3 (1660) đời Lê Thần Tông, lệ định: Người nào đánh chết người, thì gia tài người ấy đem niêm phong tịch ký để làm tiền đền mạng, còn người can phạm ấy thì chiểu luật luận vào tử hình.
Mồng một, tháng 11, mùa đông. Nhật thực.
Ngày Kỷ Sửu, sao Chổi xuất hiện ở phương đông nam vào vị trí sao Dực và sao Chẩn, đuôi sao chổi chỉ về phía sao Trương, dài đến 5 trượng.
Trịnh Tạc tâu nhà vua lánh ở điện khác, giảm bớt thức ăn, triệt bỏ âm nhạc; cho vời các quan văn quan võ thương lượng bàn bạc về chính trị điều hay, điều dở, triệt bỏ 13 sở tuần ti trái lệ ngạch ở đường thủy và đường bộ. Lòng người lấy làm vui mừng. Ít lâu sau, sao Chổi lặn.
Lời chua – Mười ba sở tuần ti: “Quốc dụng chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú chép: năm ấy triệt bỏ mười ba sở tuần ti trái lệ ngạch là:
1. Tuần ti Chính Đại huyện Tống Sơn.
2. Tuần ti Liên Hinh huyện Quảng Xương.
3. Tuần ti Mộ Chu huyện Bạch Hạc.
4. Tuần ti Lục Đầu huyện Thanh Lâm.
5. Tuần ti Vạn Phái huyện Thanh Lâm.
6. Tuần ti Hoàng Giang huyện Thư Trì.
7. Tuần ti Thụ Mệnh huyện Thụy Nguyên.
8. Tuần ti Trù Hựu huyện Bảo Lộc.
9. Tuần ti Tứ Kỳ huyện Nga Sơn.
10. Tuần ti Vân Sàng huyện Yên Khang.
11. Tuần ti Am Sài huyện Đông Quan.
12. Tuần ti Lịch Giang phủ Gia Hưng.
13. Tuần ti Tam Kỳ huyện Phượng Nhỡn.
Hạ lệnh cho phạm nhân nào trước kia trốn tránh nay tự ra thú, sẽ được giảm nhẹ hoặc tha bổng.
Lúc ấy, những tù phạm tội phần nhiều đi trốn, nên cho phép đều được tự ra thú, sẽ xét người phạm tội nặng cho giảm nhẹ, người phạm tội nhẹ được tha bổng.
Bắt đầu đặt chức quan Chưởng Phủ sự2819 và Thự Phủ sự2820 trong ngũ phủ.
Trong ngũ phủ đều đặt chức Đô đốc phủ Chưởng Phủ sự và Đô đốc phủ Thự phủ sự. Bổ dụng những người sau đây:
– Thái phó Khê quận công Trịnh Trượng giữ chức Trung quân Đô đốc phủ tả Đô đốc chưởng phủ sự;
– Lỵ quận công Trịnh Đống giữ chức Đông quân Đô đốc phủ tả Đô đốc Chưởng phủ sự;
– Thiếu úy Vân quận công Trịnh Kiền giữ chức Nam quân Đô đốc phủ tả Đô đốc thự phủ sự;
– Hào quận công Lê [Thì] Hiến giữ chức Tây quân Đô đốc phủ tả Đô đốc thự phủ sự;
– Thiếu phó Điện quận công Trịnh Ốc giữ chức Bắc quân Đô đốc phủ tả Đô đốc thự phủ sự.
Lời chua -Ngũ phũ: “chức quan chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú chép: Đầu năm Quang Thuận (1460 -1469) đời Lê Thánh Tông, đặt chức tả đô đốc, hữu đô đốc trong ngũ phủ2821 , chuyên giữ về binh chính. Hồi Lê Trung Hưng mới đặt thêm chưởng phủ sự và thự phủ sự, dùng quan đại thần có vị vọng long trọng giữ chức này. Chức này sau cùng với các chức tham tụng, bồi tụng và quyền phủ làm “ngũ phủ phủ liêu”.
Đặt đủ chức Thượng thư trong sáu bộ.
Hồi đầu trung hưng sắp xếp quan chức, có tên sáu bộ, nhưng chức quan thượng thư chưa được đủ số. Đến nay bổ dụng:
Tham tụng Phạm Công Trứ làm thượng thư bộ Lại.
Bồi tụng Trần Đăng Tuyển làm thượng thư bộ Hộ,
Nguyễn Năng Thiệu làm thượng thư bộ Lễ,
Vũ Duy Chí làm thượng thư bộ Binh,
Phan Kim Toàn làm thượng thư bộ Hình,
Lê Hiệu làm thượng thư bộ Công. Lại bổ dụng Lê Sĩ Triệt làm đô ngự sử trong Ngự sử đài.
Lời cẩn án -Triều Tiền Lê2822 chưa đặt chức Tham tụng và Bồi tụng, sau khi trung hưng, chính quyền về tay họ Trịnh, mới đặt hai chức này để tham dự giúp đỡ chính phủ2823 . Thời đại Lê Thần Tông (1649 -1662), Trịnh Tạc bổ dụng Phạm Công Trứ, thượng thư bộ Lễ, và Dương Trí Trạch, thượng thư bộ Lại, đều giữ chức Tham tụng. Từ đấy, Tham tụng là chức đứng đầu giúp việc chính phủ mà bồi tụng là chức thứ hai. Lời chua -Trần Đăng Tuyển: Người xã Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640) năm Dương Hòa triều Lê Thần Tông.
Phan Kiêm Toàn: Người xã Địa Linh, huyện Thụy Nguyên, đỗ tiến sĩ khoa Quý Mùi (1643) năm Phúc Thái, triều Lê Chân Tông.
Vũ Duy Chí: Người xã Một Trạch, huyện Đường An.
Định kỳ hạn sửa đắp đê điều.
Cứ tháng 10 hàng năm, ti Thừa Chính các xứ sức cho các huyện thuộc hạt đi khám đê đường, xem chỗ nào cần phải sửa đắp: nếu là công trình nhỏ, thì chiếu theo xã nào mà thế nước có thể đến được sức cho dân các xã ấy tự làm công việc sửa đắp, việc sửa đắp này là do huyện trông coi thúc giục; nếu là công trình lớn thì hạ lệnh cho quan đôn đốc. Hàng năm cứ sơ tuần2824 tháng giêng khởi công, đến trung tuần tháng ba công việc đã phải làm xong. Thể lệ này đặt làm thể lệ lâu dài.
Tháng 12. Sứ thần nhà Thanh sang nước ta.
Bọn chánh sứ Ngô Quang và phó sứ Chu Chí Viễn sang dụ bảo việc tế Lê Thần Tông.
Khánh thành điện Chiêu Sự ở đàn Nam Giao.
Điện vũ ở đàn Nam Giao, trước kia quy mô nhỏ hẹp, nay sai quan gia công xây dựng thêm, đến đây công việc đã hoàn thành, lại hạ lệnh cho từ thần2825 là bọn Hồ Sĩ Dương soạn văn bia để ghi công việc ấy.
Lời cẩn án -Kiến văn lục của Lê Quý Đôn chép: Đời Hồng Đức định quy chế về đàn Nam Giao; điện Chiêu sự ba gian hai chái, đông vũ và tây vũ đều bảy gian, lại có điện canh ly2826 , nhà trai cung2827 và nhà bếp, mở ba tầng cửa, bốn chung quanh xây tường. Tùy bút lục của Phạm Hồ chép: nước ta có đàn Nam Giao bắt đầu từ đời nhà Lý, đến đời Lê Trung Hưng lại sửa sang xây dựng thêm. Nay xét “Lý Anh Tông kỷ” chép: “nhà vua ngự ra cửa nam thành Đại La xem đắp đàn Viên Khưu”2828 . Thế thì từ triều nhà Lý, nước ta đã có đàn Nam Giao, mà điện vũ trong đàn thì bắt đầu xây dựng từ năm Hồng Đức (1470-1497). Lời chua -Điện Chiêu sự: ở phía nam thành Thăng Long về địa phận thôn Thịnh An, huyện Thọ Xương, nay nền cũ vẫn còn.
Ất Tỵ, năm thứ 3 (1665). (Thanh, năm Khang Hy thứ 4).
Tháng 3, mùa xuân. Định phép khảo công.
Hạ lệnh cho Ngự sử đài khảo xét hành trạng quan lại trong kinh và ngoài các trấn, người có công, người có tội phân biệt xếp thành từng hạng từng bậc.
Về hạng quan chia ra ba bậc: người nào cần mẫn, cẩn thận, công bằng, liêm khiết, thương yêu dân chúng, chính trị bằng phẳng, kiện tụng trôi chảy, liệt vào bậc thượng khảo, người nào không nhũng nhiễu dân về việc đòi hỏi bắt bớ, về việc khoa điều án từ, không khiếm khuyết việc công, liệt vào bậc trung khảo; người nào tham ô bỉ ổi, kiện tụng để ứ đọng, liệt vào bậc hạ khảo.
Về hạng lại chia ra hai bậc: Người nào thanh liêm, tài cán, siêng năng, nhanh nhẹn, liệt vào bậc trung khảo; người nào bỉ ổi, tham ô, nhũng nhiễu, liệt vào bậc hạ khảo.
Hàng năm, cứ đến cuối năm, Ngự sử đài làm danh sách tâu trình để bàn định thi hành việc truất bãi hoặc cất nhắc.
Tháng 4, mùa hạ. Gia phong tước Hoằng quận công cho Nguyễn Đình Kế, phiên thần2829 ở Lạng Sơn.
Thổ tù Lạng Sơn là Bế Công Lượng và Bế Công Tế trái mệnh lệnh triều đình đã tứ lâu; Đình Kế đến trấn thủ Lạng Sơn dụ dỗ được bọn Công Lượng cam kết quy thuận, được triều đình ngợi khen. Vì thế nên có mệnh lệnh được gia phong này.
Lời chua -Lạng Sơn: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 19, 31).
Định rõ lại phép khám xét kiện tụng.
Hạ lệnh cho các ty khám xét kiện tụng ở trongkinh và ngoài các trấn, nếu có luận tội phạm nhân đều phải làm tờ khải trình bày. Tội nào luận vào tử hình phải đợi triều đình bàn định lại mới được thi hành; còn hình phạt luận vào tội cắt gót, tội phạt trượng thì các quan xét kiện được tự xử đoán, nhưng không được để ứ đọng.
Lại định: 1. Thể lệ phạt tiền viên quan xét đoán kiện tụng không đúng lý; 2. Nếu việc kiện đã xử đúng lý rồi mà người đương sự còn tự ý kiện đi kiện lại một cách càn rỡ, cũng đều tùy theo lý lẽ việc kiện lớn hay nhỏ, chức phẩm viên quan xử kiện cao hay thấp mà luận phạt người phúc khiếu càn dỡ ấy nặng nhẹ khác nhau.
Lời chua -Thể lệ phạt tiền: “Hình luật chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú chép: Năm ấy, định thể lệ phạt tiền viên quan xét đoán kiện tụng không đúng lý như thế này:
Phàm việc kiện lớn xét xử không đúng lý mà người đứng xét xử là viên quan nhất phẩm, thì viên quan ấy phải phạt 100 quan; nhị phẩm 75 quan; tam phẩm 50 quan; tứ phẩm 30 quan; ngũ phẩm 25 quan, lục phẩm và thất phẩm 20 quan; bát phẩm và cửu phẩm 15 quan.
Việc kiện nhỏ xét xử không đúng lý mà người đứng xét xử là xã trưởng hoặc quan phủ, quan huyện, về trách nhiệm người nào thì người ấy phải phạt 5 quan, nếu là thừa chính sứ, hiến sát sứ, đề lãnh, trấn thủ, về trách nhiệm người nào thì người ấy phải phạt 15 quan, ngự sử 20 quan.
Việc kiện đã xét xử được đúng lý mà người đương sự còn tự ý kiện đi kiện lại một cách càn dỡ, sẽ phải phạt tiền như thế này:
Việc kiện lớn, nếu người đứng xét xử là viên quan nhất phẩm thì người phúc khiếu bậy phải phạt 100 quan; là nhị phẩm thì ngườoi phúc khiếu bậy phải phạt 75 quan; là tam phẩm thì người phúc khiếu bậy phải phạt 50 quan; là tứ phẩm thì người phúc khiếu bậy phải phạt 30 quan; là ngũ phẩm thì người phúc khiếu bậy phải phạt 25 quan; là lục hoặc thất phẩm, thì người phúc khiếu bậy phải phạt 20 quan; là bát hoặc cửu phẩm thì người phúc khiếu bậy phải phạt 15 quan.
Việc kiện nhỏ, thì người phúc khiếu bậy phải nộp phạt giảm xuống bằng một nữa số tiền nộp về kiện lớn.
Việc kiện lớn: Như những việc lập mưu giết người, ăn trộm, ăn cướp, tranh nhau ruộng đất v.v…
Việc kiện nhỏ: Như những việc hộ2830 , việc hôn2829 , đánh nhau và các việc tạp tụng v.v…
Tháng 8, mùa thu. Sách lập Trịnh Thị làm hoàng hậu.
Trịnh Thị tên là Ngọc Áng, con gái thứ của Tạc. Khi nhà vua lên ngôi đón vào trong cung, đến nay lập làm hoàng hậu.
Tôn mẹ là Phạm Thị làm hoàng thái hậu.
Lời chua -Thái hậu: Tên là Ngọc Hậu, người xã Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương2832 .
Tháng 11, mùa đông. Giáng chức các viên sau này:
– Thượng thư bộ Hộ Trần Đăng Tuyền làm tả Thị lang bộ Hộ;
– Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Năng Thiệu làm tả Thị lang bộ Lễ;
– Tả thị lang bộ Lại Nguyễn [Tông] Thông làm hữu Thị lang bộ Lễ;
– Đô Ngự sử Lê Sĩ Triệt làm tả thị Lang bộ Hình;
– Phó đô Ngự sử Vũ Vinh Tiến làm Thái bộc tự khanh2833 ;
– Thiêm đô Ngự sử Trịnh [Thì] Tế làm Hồng lô tự khanh2834 ;
– Thượng thư bộ Hình Phan Kiêm Toàn làm hữu Thị lang bộ Hộ.
Trước đây, Công Kiêm con viên Thượng thư bộ Lại Phạm Công Trứ, do chức tham nghị được thăng thụ lên tham chính, bầy tôi trong triều cho là không xứng đáng, cùng nhau ra sức can ngăn. Tạc không bằng lòng, bèn hạ lệnh cho Phạm Công Trứ cùng Lê Hiệu hội đồng kiểm xét những sự trạng các ti đã làm từ trước. Khi kiểm xét, trích ra những việc đăng tuyển, Năng Thiệu, Nguyễn Phong, Sĩ Triệt, Vinh Tiến và Trịnh Tế trước kia thay nhau làm Ngự sử, khám xét ngục tụng để quá kỳ hạn; còn Kiêm Toàn trước làm việc ở bộ Lại, cất nhắc viên tướng cấp dưới lên trên vượt cả thứ tự. Vì thế, những người này đều bị giáng chức.
Lời chua -Vinh Tiến: Người xã Phù Ủng, huyện Đường Hào, đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640) năm Dương Hòa triều Lê Thần Tông.
Nguyễn Phong: Người xã Dương Trai, huyện Hương Sơn.
Trịnh Tế: Người xã Nhật Tảo, huyện Lôi Dương.
Phong và Tế đều đỗ tiến sĩ khoa Canh Dần (1650) năm Khánh Đức triều Lê Thần Tông.
Tham chính và tham nghị: Theo quan chế triều Lê trước, thì Tham chính hàm tùng tứ phẩm, tham nghị hàm tùng ngũ phẩm.
Đề cử người hiếu liêm.
Hạ chiếu cho ti Thừa chính các xứ, lựa chọn kỷ trong hạt mình, người nào có đức hiếu thảo và liêm khiết thì kê tên tâu trình, triều đình sai quan xét duyệt, sẽ tùy tài năng từng người trao cho quan chức.
Bính Ngọ, năm thứ 4 (1666). (Thanh, năm Khang Hi thứ 5).
Tháng giêng, mùa xuân. Sai bọn Thái phó Trịnh Đống và Thiếu úy Lê [Thì] Hiến đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng.
Đồ đảng ác nghiệt nhà Mạc là Kính Vũ lén lút chiếm cứ Cao Bằng, làm cho dân địa phương phải cay đắng. Thông quận công Hà Sĩ Trí hiện giữ chức phiên thần ở Thái Nguyên đem quân bản thổ đi đánh, Sĩ Trí bị Kính Vũ bắt. Tin báo về triều, triều đình sai Đống giữ chức Thống lãnh, Hiến giữ chức phó Thống lãnh, Hồng lô tự khanh Trịnh[Thì] Tế và Cấp sự trung Đỗ Thiện Chính sung làm Đốc thị, đem quân tiến đánh. Kính Vũ giết Sĩ Trí để chạy trốn, quan quân bèn đốt chỗ ở của Kính Vũ, rồi dẫn quân về.
Lời chua – Thái Nguyên: Tức Ninh Sóc.
Cao Bằng: Tức Bắc Bình, nguyên trước thuộc Ninh Sóc. Cả hai nơi đều xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XX, 19, 31, 32, 35).
Tháng hai. Bổ dụng Nguyễn Văn Thực làm Hồng lô tự khanh.
Văn Thực với Giám sát Ngự sử Lê Liêu cùng đỗ khoa sĩ vọng, hai người vốn chơi thân với nhau. Lúc ấy, Văn Thực giữ chức tham chính Thanh Hoa. Lê Liêu, vì có tang, cáo quan ở nhà, làm nhiều việc trái phép. Văn Thực theo đúng pháp luật, tra hỏi xét đoán không chút tư vị. Tạc khen Văn Thực là người vô tư, thưởng cho 100 quan tiền và cắt nhắc bổ dụng.
Lời chua -Văn Thực: Người xã Đại Bái, huyện Gia Định2835 , đỗ thám hoa khoa Kỷ Hợi (1659) năm Vĩnh Thọ triều Lê Thần Tông.
Lê Liêu: Người xã Hữu Bộc, huyện Đông Sơn, đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu (1661) năm Vĩnh Thọ.
Mồng một, tháng 6, mùa hạ. Nhật thực.
Ngày Đinh Tỵ, tháng 8, mùa thu. Sao sa như mưa.
Tháng 11, mùa đông. Tuyên dương 13 người bầy tôi tử tiết là bọn Vũ Duệ.
Trước kia, họ Mạc tiếm quyền giết vua, Chiêu Tông nhà Lê phải bỏ kinh thành chạy ra ngoài, bấy giờ bầy tôi nhiều người tử tiết. Nay tham tụng Phạm Công Trứ kiến nghị xin tuyên dương những người ấy và lựa chọn bổ dụng con cháu của họ.
Lúc ấy những người sau này được sắc phong:
Sắc phong thượng đẳng thần: Vũ Duệ, Ngô Hoán, Nguyễn Mẫn Đốc, Nguyễn Thiệu Tri, Đàm Thận Huy, Lê Tuấn Mậu, Nguyễn Duy Tường và Nguyễn Tự Cường;
Sắc phong trung đẳng thần: Lê Vô Cương, Nguyễn Hữu Nghiêm, Lại Kim Bảng, Nguyễn Thái Bạt và Nghiêm Bá Kỳ.
Những người được phong làm thần, đều cho dựng từ đường ở trong làng theo thời tiết tế tự như thể lệ tế bách thần. Con cháu của họ thì lựa chọn bổ dụng những người có đức hạnh tốt; còn những người khác thì điều trừ dao dịch cho nhà họ.
Lời chua – Sự trạng các bầy tôi tự tiết: Xem Lê Chiêu Tông, năm Quang Thiệu thứ 7 và thứ 10 (Chb. XXVII, 8, 11, 12).
Đinh Mùi, năm thứ 5 (1667). (Thanh, năm Khang Hi thứ 6).
Tháng 3, mùa xuân. Sứ thần nhà Thanh sang nước ta.
Nhà Thanh sai thị độc Trình Phương Triều và Lễ bộ lang trung Trương Dịch Bôn sang sách phong nhà vua tước An Nam Quốc vương.
Tháng 5, mùa hạ. Tuyển thêm quân lính ở tứ trấn.
Lúc ấy, bàn định đi đánh Cao Bằng, bèn hạ lệnh tuyển duyệt dân đinh ở tứ trấn, chọn lấy người mạnh khỏe bổ làm lính, để thời thường luyện tập, phòng bị việc đánh dẹp, khi đánh dẹp xong, lại cho về làm ruộng.
Lời chua -Tứ Trấn: Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây.
Tháng 6. Vỡ đê Thanh Hoa.
Tháng 7, mùa thu. Sai sứ thần sang nhà Thanh.
Chánh sứ Nguyễn Nhuận, phó sứ là bọn Trịnh [Thì] Tế và Lê Vinh sang nhà Thanh nộp lễ cống hàng năm. Lại sai chánh sứ Nguyễn Quốc Trinh, phó sứ Nguyễn Công Bích sung làm sứ bộ tạ ơn.
Lời chua -Nguyễn Nhuận: Người xã Chi Nê, huyện Chương Đức, đỗ tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1637) năm Dương Hòa triều Lê Thần Tông.
Quốc Trịnh: Người xã Nguyệt Áng2836 , huyện Thanh Trì, đỗ trạng nguyên khoa Kỷ Hợi (1659) năm Vĩnh Thọ triều Lê Thần Tông. Chữ “Trinh” sử cũ chép là “Khôi” Tham khảo đăng khoa lục chép “Quốc Trinh” . Nay chép theo Đăng khoa lục. Dưới đây cũng chép như thế.
Lê Vinh: Người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn2837 , đỗ tiến sĩ khoa Bính Thân (1656) năm Thịnh Đức triều Lê Thần Tông.
Công Bích: Người xã Bất Quần, huyện Quảng Xương, đỗ bảng nhãn khoa Kỷ Hợi (1659) năm Vĩnh Thọ triều Lê Thần Tông. Đăng khoa lục chép Văn Bích.
Tháng 9. Trịnh Tạc thống lãnh binh sĩ bình định Cao Bằng, Mạc Kính Vũ chạy sang nhà Thanh.
Lúc ấy, Mạc Kính Vũ lại lẩn lút chiếm cứ Cao Bằng. Tạc thân hành thống suất đại binh đi đường Lạng Sơn, hạ lệnh cho tiết chế Trịnh Căn đốc suất các tướng đi đường Thái Nguyên, bọn thái phó Trịnh Đống, thiếu úy Trịnh Kiền, Lê [Thì] Hiến, thiếu phó Trịnh Ốc, đô đốc đồng tri Đinh Văn Tả và Lê Châu làm thống lãnh, bọn thị lang Nguyễn Năng Thiệu, Lê Sĩ Triệt, Dương Hạo, Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Văn Thực và Trương Luận Đạo làm đốc thị, chia đường cùng tiến thẳng đến Cao Bằng.
Hay tin đại binh tiến đến, Kính Vũ trốn sang châu Tiểu trấn yên nhà Thanh. Quan quân đuồi theo tróc nã, bắt được họ hàng, đồ đảng, ngựa và khí giới không sao kể xiết. Những người xin hàng phục cùng người trước kia bị Mạc Kính Vũ bắt hiếp phải theo đều được khoan hồng tha bổng. Tạc yên ủi chiêu tập dân trong châu để họ đều trở lại làm ăn như cũ.
Lời chua -Tiểu trấn yên: Tên châu. Theo Nhất thống chí nhà Thanh, thì Tiểu trấn yên tức đông Trấn yên cũ, nhà Minh chia làm Tiểu trấn yên và đặt thổ (tri) châu, cho thuộc vào phủ Tư Minh; nhà Thanh cho đổi thuộc vào phủ Trấn Yên.
Luận Đạo: Người xã Kim Hoạch, huyện Thụy Nguyên, tên cũ là Quan Tiền, sau đổi Luận Đạo, đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1640) năm Dương Hòa triều Lê Thần Tông.
Mậu Thân, năm thứ 6 (1668). (Thanh, năm Khang Hy thứ 7).
Ngày Kỷ Sửu, tháng giêng, mùa xuân. Sao Thiên Bồi xuất hiện.
Sao Thiên Bồi xuất hiện ở phương Tây Bắc, dài nửa trượng, hình dáng giống sao Chổi.
Lời chua -Thiên Bồi: Tên một vì sao. Sách Sử ký chính nghĩa chép: Thiên Bồi có một tên nữa là sao Giác, phần chính sao này giống như sao khác, nhưng phần cuối tua nó thì nhọn dài 4 trượng. Sao này xuất hiện thì thiên hạ có binh tranh. Theo sách Hán thư thì sao Thiên Thương, Thiên Sàm, Thiên Bồi và sao Chổi hình trạng khác nhau,
nhưng nếu xuất hiện thì tai họa cũng như nhau. Khảo yếu nói: Tuế tinh biến động mà thành yêu quái, thì có tên bốn vì sao kể trên. Còn như sao Thiên Bồi ở ngoài vị trí sao Tử Vi thì lại khác với sao Thiên Bồi nói ở đây.
Đại hạn.
Tháng 2. Trịnh Tạc dẫn quân về, tâu việc thắng trận ở thái miếu.
Quân của Tạc đánh thắng trận kéo về. Tạc để Đinh Văn Tả ở lại trấn thủ châu Thất Tuyền, bổ dụng Hồng lô tự khanh Nguyễn Văn Thực làm đốc đồng. Tạc về đến kinh thành, cáo yết thái miếu dâng công thắng trận. Phàm bọn đầu sỏ họ Mạc đều xử theo pháp luật, ngoài ra, các người khác đều được tha.
Lời chua -Thất Tuyền: Tên châu, trước là Thất Nguyên, nay là Thất Khê, xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 18 (Chb. II, 25).
Tháng 4, mùa hạ, Trịnh Tạc tự gia phong là đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây vương.
Nhân có công đánh được nhà Mạc, Trịnh Tạc giả thác sắc mệnh của vua tiến phong cho, nhưng thực là Tạc tự gia phong lấy.
Tháng 6. Bàn định công đánh dẹp Cao Bằng, gia phong quan tước cho bọn Đinh Văn Tả người tước cao tước thấp khác nhau.
Gia phong: Đinh Văn Tả làm tả đô đốc, Trịnh Sâm, Đặng Tiến Thự đều làm đô đốc đồng tri, Dương Hạo làm tả thị lang bộ Lại, Trương Luận Đạo làm Đông các hiệu thư, Lê Châu làm đô dốc thiêm sự, Mai Thế Khang làm tham đốc, Đào Quang Quảng và Lưu Thế Canh đều phong tước quận công. Còn những người khác đều được thăng chức hoặc cao hoặc thấp khác nhau.
Lời chua -Tiến Thự: Người xã Lương Xá, huyện Chương Đức, dòng dõi Đặng Huấn, công thần trung hưng. Tiến Thự, sử cũ chép Trịnh Điềm, là theo họ tên mà chúa Trịnh ban cho. Nay cải chính, dưới đâu cũng chép như thế.
Quang Quảng: Người xã Thủy Cam, huyện Thanh Oai.
Tham đốc: Hàng võ giai, hàm tòng nhị phẩm.
Đông cát hiệu thư: Hàng Văn Giai, hàm tùng lục phẩm.
Kỷ Dậu, năm thứ 7 (1669). (Thanh, năm Khang Hy thứ 8).
Tháng giêng, mùa xuân. Sứ thần nhà Thanh sang nước ta, dụ bảo vua nhà Lê đem bốn châu thuộc Cao Bằng cho Mạc Kính Vũ.
Trước đây, Mạc Kính Diệu sang đầu hàng nhà Thanh, ,chưa kịp nhận tước phong, Diệu đã mất, con Diệu là Kính Vũ nối nghiệp cha, tiếm xưng niên hiệu Thuận Đức, đặt tên giả cho Nguyên Thanh. Nhà Thanh trao cho chức An Nam đố thống sứ, theo như hiệu cũ mà nhà Thanh đã phong cho Đăng Dung khi trước. Đến nay. Quan quân thu phục được Cao Bằng, sai Vũ Vinh Tiến làm đốc trấn để trấn trị. Kính Vũ chạy sang nhà Thanh kêu ca thảm thiết và xin cứu viện. Viên tổng đốc Lưỡng Quảng2838 đem việc này tâu bày, vua nhà Thanh nhận cho Kính Vũ đầu hàng, hạ lệnh cho dời Kính Vũ đến ở tạm tại Nam Ninh, rồi ra đặc chỉ cho nội viện thị độc Lý Tiên Căn và Binh bộ chủ sự Dương Doãn Kiệt sang nước ta dụ bảo, bắt trả lại đất Cao Bằng cho họ Mạc.
Tháng giêng, năm ấy (tức năm Kỷ Dậu 1669), sứ nhà Thanh đến Thăng Long, triều đình nhà Lê dùng lý lẽ biện bác bắt bẻ, kéo dài đến hơn 10 ngày mới tuyên bố sắc văn, rồi lại bàn cho họ Mạc được giữ một châu Thạch Lâm, nhưng Lý Tiên Căn cũng cố giữ lẽ, không nghe, thành ra giằng co đến hơn 40 ngày. Sau Tạc lấy cớ rằng “thờ nước lớn cần phải cung kính theo mệnh lệnh”, mới tâu với vua gượng gạo
theo lời. Triều đình bèn bỏ đất bốn châu thuộc Cao Bằng cho Kính Vũ, mà triệu Vinh Tiến về. Sau đó Vinh Tiến chết.
Lời chua – Bốn châu: Tức Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang.
Tháng 2. Sứ thần là bọn Nguyễn Quốc Trinh từ nhà Thanh trở về nước, lại định thể lệ cứ 6 năm cùng dâng cả hai lễ cống.
Trước đây, lễ tế cống cứ 3 năm dâng một lần, phải đưa đón phiền phí. Khoảng niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619), nhà Minh chuẩn cho cứ 6 năm cùng dâng cả hai lễ cống. Đến nay, triều đình lại muốn theo như việc cũ triều Minh, sai bọn Quốc Trinh nhân đệ lễ tuế cống, vào chầu tâu vua Thanh về việc này, vua Thanh chuẩn y, bèn làm thành thể lệ.
Sau bàn định công những người phụng mệnh đi sứ: Quốc Trinh thăng chức tả thị lang bộ Lễ, tước Ngọc Trì tử, Công Bích thăng hữu thị lang bộ Hình, tước Gia Xương nam; còn Nguyễn Nhuận và Trịnh (Thì) Tế đều chết ở dọc đường, triều đình tặng cho Nhượng hàm thượng thư bộ Công, tước bá, và tặng cho Tế hàm tả thị lang bộ Công, tước tử, cấp cho ruộng của dân để sung vào việc tế tự.
Mồng một, tháng 4, mùa hạ. Nhật thực, đến hết.
Đại hạn.
Tháng 6. Bổ dụng Vũ Duy Chí làm thượng thư bộ Lễ, Trần Đăng Tuyển làm thượng thư bộ Binh, Lê Hiệu làm thượng thư bộ Hình. Ba người này đều được gia phong chức tham tụng.
Duy Chí là người cẩn thận kín đáo, làm việc có tính toán, thông hiểu về công việc cai trị dân, hơn nữa lại có văn học để tô điểm thêm vào. Trịnh Tạc từ khi làm thế tử, đã để bụng thân yêu tin cẩn, nên Duy Chí được thăng dần đến thượng thư, tước Phương quận công. Đến nay Duy Chí được cùng Đăng Tuyển, Duy Hiệu vào giữ công việc trong chính phủ. Có người nói về tư cách của Duy Chí. Muốn giải thích những mối nghi ngờ, Tạc bèn làm bài “luận giải nghi” bằng cách bày tỏ hết công việc của họ Tiêu, họ Tàu, họ Phòng, họ Đỗ2839 ngày trước.
Sau khi Duy Chí đã vào giữ việc trong tướng phủ, gặp tiết nguyên đán2840 , trăm quan vào chầu mừng vua Lê rồi, sau đến chầu mừng ở phử chúa Trịnh. Theo lệ, thì khi vào phủ chúa, trước hết trăm quan thay triều phục rồi sau mới vào làm lễ lạy mừng. Trịnh Tạc bắt trăm quan cứ mặc nguyên áo triều bào. Duy Chí nói “Lễ mừng phủ chúa nên dùng áo thanh cát là đúng, không thể làm trái phép cũ được”. Trịnh Tạc bèn thôi. Lúc bấy giờ người ta bảo Duy Chí có phong độ một người bầy tôi biết can ngăn.
Tháng 9, mùa thu. Bổ dụng Lê Đình Kiên làm đề đốc2841 .
Đình Kiên trấn thủ Sơn Nam, làm việc liêm khiết công bằng, dập tắt được mối trộm cướp, làm cho nhân dân yên ổn, nên được cất nhắc giữ chức này.
Lời chua -Đình Kiên: Người Bát Trại huyện An Định.
Đề đốc: Quan chế triều Lê, đề đốc về hàng quan võ, hàm chánh nhị phẩm.
Bọn trộm giết thổ tù Tuyên Quang là Vũ Công Đắc, triều đình bổ dụng Công Tuấn, con Công Đắc, làm đô đốc thiêm sự2842 , tước Khoan quận công.
Trước kia, Gia quốc công Vũ Văn Mật đóng doanh ở An Bắc (có chỗ chép An Tây) trấn Tuyên Quang, lúc bắt đầu trung hưng, Văn Mật có công đánh nhà Mạc, được cha truyền con nối giữ trấn Tuyên
Quang, đóng ở Đại Đồng; con Văn Mật là thái phó Vũ Công Kỷ và cháu là thái bảo Vũ Đức Cung đời đời sửa lễ cống theo chức phận; đến cháu tằng tôn (chắt) là thiếu phó Vũ Công Đắc cậy Tuyên Quang là nơi hiểm trở xa xăm, bèn bè đảng với họ Mạc, tiếm xưng tước vương, lập triều đường, nha môn giả hiệu. Triều đình cũng bao dung nhẫn nại không hỏi gì đến. Đến nay Công Đắc cùng bộ thuộc của hắn là Ma Phúc Trường có sự bất bình với nhau. Công Đắc trong bụng nghi ngờ lo sợ, vào kinh sư nộp tờ cam kết xin quy thuận. Khi đến tuần ti Đông Lan, đêm đến. Công Đắc bị bọn trộm giết. Người ta đều ngờ Phúc Trường lập mưu chủ sự việc này.
Được tin việc xảy ra, triều đình nghĩ tổ tiên Công Đắc là người có công, không nỡ tuyệt tình, bèn bổ dụng con hắn là Công Tuấn được nối phong tước Khoan quận công, để ở kinh sư, cấp cho dân lộc để phụng thờ tiên tổ, các con trai con gái của Công Đắc đều được triều đình vỗ về yên ủi. Triều đình lại nhận thấy Phúc Trường không trung thành với người mà hắn phải phụng sự, nên giam vào ngục.
Lời chua -Tuần ti Đông Lan: Ở huyện Đông Lan, hồi triều Lê, huyện Đông Lan thuộc trấn Sơn Tây, nay đổi tên là Hùng Quan2843 . Địa hạt này trước có đặt cơ sở tuần ty, nên gọi là Tuần Ty Đông Lan.
Tuyên Quang: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 16, 30, 35).
Bắt đầu thi hành thể lệ quân bình suất đinh trong sổ bộ.
Từ khi trung hưng đến nay, theo chế độ cũ, cứ 6 năm một lần lựa chọn xét duyệt dân đinh, số dân đinh thường có khi tăng, khi giảm, thuế khóa nơi nặng nơi nhẹ, không quân bình. Năm Cảnh Trị thứ 2 (1664), Phạm Công Trứ giữ việc trong chính phủ, bàn định: “Việc lựa chọn xét duyệt phiền nhiễu luôn luôn, sổ hộ khi tăng khi giảm, vì thế mà bọn lại điển, bọn tổng lý nhân vịnh vào đấy để làm sự gian xảo, xin thi hành thể lệ bình quân”. Bèn sai quan chia nhau đi đến tứ trấn cùng hai phủ Thiên Quang và Trường Yên, xét theo hiện tại xem tài sản của dân nhiều hay ít, ruộng đất các nơi tốt hay xấu, rồi quân bình số thuế về đinh suất. Đến nay sổ hộ đã làm xong, gọi tên là “bình lệ” . Trong sổ ghi rõ số đinh số thuế để làm phép tắc nhất định. Sau này số đinh sinh ra cũng không tính, chết đi cũng không trừ.
Lời cẩn án -Về điều này, sử cũ chép: “Thể lệ bình bổ quý thuế ở tứ trấn đã làm xong”. Nhưng tham khảo các sách đều nói: “Bình lệ là sinh ra không tính, chết đi không trừ”. Như thế là chỉ nói riêng về thuế thân dung của nhân đinh mà thôi. Lúc bấy giờ, nhân đinh ở Thanh và Nghệ đã phải chịu việc xung bổ vào quân ngũ, ngoài số bổ sung quân ngũ ra, số đinh còn lại không được bao nhiêu. Còn như nhân đinh ở bốn trấn và hai phủ Thiên Quan, Trường Yên chưa từng phải chịu sự bổ sung quân ngũ, thì nhân đinh hoặc có nơi tăng nơi giảm không nhất định, vì thế mà thể lệ bình quân thuế đinh chỉ thi hành ở tứ trấn và hai phủ, mà không thi hành đến Thanh Hoa và Nghệ An. Lại tham khảo Kiến văn lục của Lê Quý Đôn chép: “Khoảng năm Cảnh Trị (1663-1671) thi hành thể lệ bình quân thuế đinh suất, bãi bỏ phép 6 năm một lần làm sổ hộ và tuyên duyệt quân ngũ”. “Quốc dụng chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú chép: “Tính dân đinh mà đánh thuế gọi là quý, đo ruộng đất công mà đánh thuế gọi là thuế”. Hai chữ “bình lệ” ở điều này. Sử cũ gọi chung là “quý thuế” như thế chưa phân biệt được quý và thuế, nên nay cải chính. Lời chua -Thiên Quan: Tên phủ, xem Bình Định Vương năm thứ 9 (Chb. XIII, 25).
Trường Yên: Tên phủ, Xem Lý Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 1 (Chb. II, 11).
Canh Tuất, năm thứ 8 (1670). (Thanh, năm Khang HY thứ 9).
Tháng 3, mùa xuân. Sao Hỏa Tinh đi vào vị trí sao Nam Đẩu; sao Kim Tinh đi vào vị trí sao Thái Vi.
Lời chua -Hỏa Tinh: Tức sao Huỳnh Hoặc.
Kim Tinh: Xem Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 16 (Chb. V, 7).
Tháng 4, mùa hạ. Sai Nguyễn Quốc Trinh, tả thị lang bộ Lễ, chầu chực phụ ở Kinh Diên2844 .
Tháng 5. Không mưa.
Tháng 6. Sai thiếu úy là bọn Lê [Thì] Hiến đi bình định Tuyên Quang.
Lúc ấy, con trai Ma Phúc Trường, thổ tù Tuyên Quang, là Phúc Lan và em Phúc Trường là Phúc Điện tụ hợp nhiều người đi cướp bóc, dân địa phương bị rối loạn. Triều đình bèn sai Lê [Thì] Hiến làm thống suất, Hồ Sĩ Dương làm đốc thị cùng bọn tham đốc Nguyễn Đức Triêm chia đường tiến đánh, bắt chém tên Phúc Lan, còn Phúc Điện chạy sang đất nhà Thanh. Bọn {Thì] Hiến yên ủi chiêu tập nhân dân trong châu, rồi kéo quân về.
Lời chua -Tuyên Quang: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (Chb. XXI, 19, 30, 35).
Thống suất, đốc thị: Hai chức này chỉ đặc biệt đặc ra trong lúc hành quân đánh dẹp, khác với chức đốc suất và đốc thị đặt ở Nghệ An.
Thiếu úy: Theo quan chế triều Lê, thì thiếu úy về hàng quan võ, hàm tùng nhất phẩm.
Tân Hợi, năm thứ 9 (1671). (Thanh, năm Khang Hy thứ 10).
Tháng 7, mùa thu. Hạ lệnh cho các quan trong triều đều đề cử người có thể làm nổi công việc thú, lệnh2845 .
Phàm người nào có văn học, có đức hạnh, biết phương pháp về đường chính trị, có thể đảm đang được công việc thú, lệnh, thì quan nhất phẩm, nhị phẩm đề cử lấy bốn người: quan tam phẩm đến ngũ phẩm đề cử lấy ba người; quan lục phẩm đến bát phẩm đề cử lấy hai người; rồi đưa sang bộ Lại lựa chọn bổ dụng. Viên quan nào đề cử được người xứng đáng sẽ được ban thưởng; trong những người đã được đề cử ấy, hoặc có người nào tham ô trái phép, mà viên quan đứng đề cử biết tâu bày cáo tố ngay từ trước, thì được miễn tội, nếu che giấu không tâu bày, thì viên quan đứng đề cử sẽ cùng với người mình đề cử mà làm việc tham ô trái phép cùng phải tội.
Mồng một, tháng 8. Nhật thực.
Người nhà Thanh bắt tên Ma Phúc Điện giải giao sang nước ta, triều đình cho đem giết chết.
Tổng quản Vân Nam Bình Tây thân vương Ngô Tam Quế nhà Thanh giao cho trấn tiêu2846 du kích ở Khai Hóa là họ Tào và tri phủ là họ Lưu (đều không rõ tên) giải tên Phúc Điện cùng đồ đảng của hắn đến biên giới giao trả cho nước ta. Triều đình đem bọn này cùng với Ma Phúc Trường đều giết chết.
Lời chua -Vân Nam: Xem Bình Định vương năm thứ 10 (chb. XIV, 10).
Khai Hóa: Xem Lê Hy Tông, năm Chính Hòa thứ 9 (Chb. XXXIV, 21).
Ma Phúc Trường: Về việc Ma Phúc Trường giết Vũ Công Đắc, thổ tù Tuyên Quang, xem năm Cảnh Trị thứ 7 (Chb. XXXIII, 28).
Tháng 10, mùa đông. Nhà vua mất.
Dâng tôn hiệu là Mục hoàng đế, miếu hiệu Huyền Tông. Nhà vua ở ngôi 9 năm, thọ 18 tuổi.
Tháng 11. Làm lễ táng ở lăng Quả Thịnh.
Lập điện Kiền Long, hằng năm theo thời tiết cúng tế.
Lời chua -Lăng Quả Thịnh: Ở xã Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương, tức là quê thái hậu Phạm Thị.
Tạc lập hoàng đệ (em vua Huyền Tông) Duy Khoái lên ngôi vua, đại xá cho trong nước.
Trước kia, lúc Thần Tông mất, con thứ của Thần Tông là Duy Khoái mới 2 tuổi. Tạc nuôi dưỡng ở trong phủ. Nay Huyền Tông mất không có con nối ngôi. Tạc đem trăm quan tôn lập Duy Khoái (tức là Gia Tông). Kể từ năm sau là năm Dương Đức thứ nhất, hạ lệnh đại xá.
Nhâm Tý, Gia Tông Mỹ hoàng đế, năm Dương Đức thứ nhất (1672). (Thanh, năm Khang Hy thứ 11).
Tháng giêng, mùa xuân. Tế nam giao.
Giảm bớt số lộc điền cấp cho các công thần, duy Lê Lai là người có công lớn, sô ruộng vẫn được cấp như cũ.
Trước kia, Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn, bị quân nhà Minh bức bách, Lê Lai khảng khái lăng xá vào nơi hoạn nạn. Sau khi dẹp được quân Minh, đã nhiều lần Lê Lai được tặng phong tước vương và ban cho ruộng tế tự. Đến nay, giảm bớt lộc điền của các công thần, triều đình lấy cớ rằng Lê Lai là người có công lớn, nên ruộng tế tự được cấp từ trước vẫn để nguyên như cũ, giao cho cháu chắt được đời đời phụng thủ để tế tự.
Lời chua -Việc Lê Lai chết vì nạn nước: Xem Bình Định Vương năm thứ nhất (Chb. XIII, 8).
Tháng 6, mùa hạ. Vũ Công Tuấn làm Phản.
Công Tuấn nhân lúc sơ hở, bỏ trốn về Tuyên Quang, quân lính trong kinh sư đuổi theo không kịp2847 . Công Tuấn bèn cướp bóc dân trong châu, làm cho địa phương này bị rối loạn.
Lời cẩn án: – Sau này Công Tuấn chạy sang đất nhà Thanh, người nhà Thanh bắt trả về nước ta. Việc này chép ở năm Chính Hòa thứ 10 đời Lê Hy Tông (Chb. XXXIV, 22). Thế mà sử cũ lại chép lầm vào năm Cảnh Trị thứ 7 Trịnh Ốc đuổi giết được Công Tuấn2848 . Trịnh Tạc kèm nhà vua đi châu Bắc Bố Chính. Tạc tiến quân xâm lấn đồn lũy Trấn Ninh, bị quân ta2849 đánh lui. Tháng 12. Tạc dẫn quân về Bắc.
Lúc ấy, họ Trịnh đem đại binh vào xâm lấn: Trịnh Căn giữ chức nguyên soái quân thủy, Lê {thì] Hiến giữ chức thống suất quân bộ, hai tướng này thống lãnh vài ba vạn quân chia đường cùng tiến, còn Tạc thì đi kèm xa giá nhà vua đến châu Bắc Bố Chính.
Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế ta hạ lệnh cho ông hoàng tư (hoàng tứ tử) tên là Hiệp làm nguyên soái; đem các tướng hiệu tiến đến Quảng Bình, bọn chưởng doanh Nguyễn Hữu Dật và trấn thủ Quảng Bình Nguyễn Mỹ Đức đóng hàng lượt đồn lũy chặn giữ ở nơi hiểm yếu. Quân họ Trịnh liền sang qua sông Gianh, lại bố trí một loạt thuyền chiến ở cửa biển Nhật Lệ. Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế ta thân hành thống suất đại binh tiến đến tiếp ứng cho cánh quân thống soái Hiệp, thanh thế quân lính vang dội xa gần. Tháng 11, Lê {Thì] Hiến, tướng của họ Trịnh, dẫn quân tiến sát đến lũy Trấn Ninh, bọn Nguyễn Hữu Dật dựa vào nơi hiểm trở, chiến đấu rất hăng, luôn luôn thu được thắng lợi, quân họ Trịnh
không thể chống chọi được, rút về đóng ở châu Bắc Bố Chính. Tháng 12, nhân mùa đông giá rét, Trịnh Tạc dẫn quân về, để Lê [Thì] Hiến ở lại giữ chức trấn thủ Nghệ An và Lê Sĩ Triệt giữ chức đốc đồng, đóng ở doanh Hà Trung, chia nhau đóng đồn ở các đường hiểm yếu, vạch đôi sông Gianh làm giới hạn. Từ đây trở đi, phương Nam phương Bắc ngừng việc binh đao.
Lời chua -Lũy Trấn Ninh: Ở tỉnh Quảng Bình, xem Lê Thần Tông, năm Vạn Khánh thứ nhất (Chb. XXXII, 39).
Bắc Bố Chính: Xem Lê Thần Tông, năm Đức Long thứ 5 (Chb. XXXI, 29).
Sông Gianh: Xem Lê Chân Tông, năm Phúc Thái thứ 6 (Chb. XXXII, 6).
Cửa biển Nhật Lệ: Xem Trần Duệ Tông, năm Long Khánh thứ 4 (Chb. X, 39).
Quý Sửu, năm thứ 2 (1673). (Thanh, năm Khang Hy thứ 12).
Tháng 3, mùa xuân. Sai sứ thần sang nhà Thanh.
Chánh sứ Nguyễn Mậu Tài và Hồ Sĩ Dương phó sứ Đào Công Chính, Vũ Công Đạo và Vũ Duy Hài. Hai sứ bộ này sang nhà Thanh nộp lễ tuế cống và cáo phó về việc tang Huyền Tông.
Lời chua -Mậu Tài: Người xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1646) năm Phúc Thái triều Lê Chân Tông.
Cống Chính: Người xã Hội Am, huyện Vĩnh Lại, đỗ bản nhãn khoa Tân Sửu (1661) năm Vĩnh thọ triều Lê Chân Tông.
Công Đạo và Duy Hài: Đều người xã Mộ Trạch, huyện Đường An, đều đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659) năm Vĩnh Thọ triều Lê Thần Tông.
Tháng 7, mùa thu. Khởi phục2850 Phạm Công Trứ giữ công việc lục bộ và tham tán việc cơ mật.
Công Trứ làm việc ở chính phủ đã lâu, là một bậc lão thành thông suốt công việc chính trị, trước kia Công Trứ viện lẽ nhiều tuổi, cáo quan về nhà, nay triều đình nghĩ ông ta là người kỳ cựu, nên lại triệu ra làm quan, giao phó cho giữ công việc cơ mật. Công Trứ được triều đình ban ơn đãi ngộ hơn hẵn người khác.
Trịnh Tạc bắt đầu hạ lệnh cho văn thần vào ứng chực trong phủ để bàn luận công việc.
Văn thần vào hàu phủ chúa Trịnh gọi là “nhập cát” bắt đầu từ đây.
Giáp Dần, năm Đức Nguyên thứ nhất (1674). (Từ tháng 10 trở về sau đổi niên hiệu là Đức Nguyên -Thanh, năm Khang Hy thứ 13).
Tháng 5, mùa hạ. Quân lính nổi loạn, giết viên bồi tụng Nguyễn Quốc Trinh, cướp phá nhà viên tham tụng Phạm Công Trứ.
Bấy giờ ưu binh Thanh, Nghệ2851 cậy có công lao, sinh ra kiêu ngạo phóng túng. Quốc Trinh và Công Trứ bàn cách kềm hãm ức chế bớt đi, vì thế binh lính không bằng lòng. Lại gặp lúc ấy Phan Kiêm Toàn và Lê Hiệu vừa mới can tội phải giáng chức, có ý bất mãn. Hai người này nhân đà lại xúc xiểm thêm vào. Quân sĩ bèn rao hò ầm ĩ, đón đường giết Quốc Trinh, rồi đến cướp nhà Công Trứ. Công Trứ phải trốn ra ngoài mới được thoát nạn. Trịnh Tạc sợ quá, sai quan đi phủ dụ và cho tiền bạc, bấy giờ quân lính mới chịu yên tĩnh.
Tạc vời Công Trứ vào trong phủ ban cho vàng bạc để an ủi, sau bắt giết ba người đứng đầu nổi loạn để tế Quốc Trinh, lại truy tặng Quốc Trinh chức thượng thư bộ Binh, tước Trì quận công, cho tên thụy là Cương trung và lục dụng con cháu.
Quốc Trinh khi làm quan ở triều, khảng khái dám nói đều phải đều trái, nay chết ở trong tay loạn quân, nên người ta đều thương tiếc. Kiêm Toàn và Lê Hiệu sau cũng phải tội vì dự mưu với loạn quân.
Lời cẩn án -Sử cũ chép: “Bồi tụng tả thị lang Nguyễn Quốc Khôi mất, (Trịnh) vương được tin cáo phó, rất lấy làm thương xót”. Quốc Khôi tức là Quốc Trinh. Nay tham khảo các sách: Đăng Khoa bị khảo của Phan Huy Ôn chép: Quân tam phủ2852 giết Quốc Trinh đốt và cướp nhà Phạm Công Trứ. Lữ trung tạp thuyết của Bùi (Huy) Bích, tham tụng triều cố Lê, chép: Ưu binh đuổi Phạm Công Trứ, giết Nguyễn Quốc Trinh. Như thế, rõ ràng là Quốc Trinh bị loạn quân giết chết. Này, nhà Lê từ lúc trung hưng về sau, chuyên nương nhờ vào ưu binh Thanh Nghệ, tình thế đã thành ra quá lệch lạc, để đến nổi binh sĩ kiêu ngạo phóng túng như thế. Đã thế, mà lại còn không biết buộc họ vào kỷ luật, chỉ cứ chần chừ cẩu thả, để cho tướng hiệu thì kiêu căng, binh lính thì hung hãn, rồi sau cũng phải đi đến diệt vong. Thế mà người cầm bút chép sử lại kiên kỵ việc xảy ra, mà chép là “Quốc Trinh mất”2853 . Chép như thế, thật đáng cho là quái gở! Ngày Kỷ Hợi, tháng 6. Sao Thái Bạch xuất hiện ban ngày, tranh ánh sáng với mặt trời.
Tháng 7, mùa thu, Trịnh Tạc tự tiến phong cho con là Trịnh Căn làm nguyên soái, giữ chính quyền trong nước, tước Định Nam Vương. Trịnh Căn tiếm xưng là phó vương.
Phàm văn thư ở phủ Trịnh Vương ban ra tiếm xưng là “lệnh dụ” thần dân dâng tờ khải lên phủ Trịnh vương thì nói “cẩn khải văn” (kính cẩn dâng tờ khải để vương soi xét). Văn thư ở phủ phó vương ban ra tiếm xưng là “lệnh chỉ”; thần dân dâng tờ khải thì nói: “cẩn khải” (kính cẩn dâng tờ khải”.
Tôn mẹ là Lê Thị làm chiêu nghi.
Lê Thị, tên là Ngọc Hoàn, cung nhân của Thần Tông và là sinh mẫu của nhà vua.
Lời cẩn án -Từ đời cổ, vua chúa tôn xưng danh hiệu mẫu hậu, thì xưng là hoàng thái hậu hoặc hoàng thái phi. Còn như chiêu nghi là hiệu cung giai2854 , nay đem danh hiệu ấy tôn xưng mẫu hậu thì thật không ra lễ nghi gì cả. Lúc ấy chính quyền ở trong tay họ Trịnh, vua nhà Lê có cử động việc gì, cũng đều bị ngăn cản ức chế. Như thế thì việc này cũng không có gì đáng lấy làm quái lạ. Lời chua -Ngọc Hoàn: Người xã Phúc Lộc, huyện Thụy Nguyên2855 .
Chiêu nghi: Cương mục tập lãm, về “truyện ngoại thích” trong Hán thư chép: Chiêu nghi, ngôi thứ ngang với thừa tướng, phẩm tước ví với vua chư hầu. Nhan Sư Cổ giải nghĩa hai chữ “chiêu nghi” rằng: “Làm sáng rõ uy nghi của mình, dùng danh từ này đặt tên hiệu để tỏ ra là bậc long trọng”. Theo quan chế đời Hồng Đức chép về cung giai thì chiêu nghi là một cấp bậc trong hàng cửu tần.
Tháng 10, mùa đông. Đại xá.
Vì có tai biến sao Thái Bạch, nên đổi năm ấy làm năm Đức Nguyên thứ nhất. Đại xá cho trong nước.
Tháng 12. Bộ Lại bổ dụng viên chức trong kinh và ngoài các trấn 1.239 người.
Bấy giờ chức quan nhũng lạm phức tạp, một lúc cất nhắc bổ dụng đến hơn ngàn người: làm quan cầu may, viên chức thừa thãi, không còn phân biệt gì cả.
Ất Mão, năm thứ 2 (1675). (Thanh, năm Khang Hy thứ 14).
Tháng 4, mùa hạ. Nhà vua mất.
Dâng tôn hiệu là Mỹ hoàng đế, miếu hiệu Gia Tông. Nhà vua ở ngôi 4 năm, thọ 15 tuổi.
Tháng 6. Làm lễ táng ở lăng Phúc An.
Lập điện Thiên Ninh, hàng năm theo thời tiết cúng tế.
Lời chua -Lăng Phúc An: Ở xã Phúc Lộc, huyện Thụy Nguyên2856 , quê của chiêu nghi Lê Thị. Phúc An có sách chép Phúc Lộc.
Tạc lập hoàng đệ Duy Hiệp lên ngôi. Đại xá.
Duy Hiệp, con thứ tư của Thần Tông, do Trịnh Thị Ngọc Tấn sinh ra. Lúc Thần Tông sắp mất, trối lại Trịnh Tạc rằng: “Cung nhân là Ngọc Tấn có mang mới được 4 tháng, chưa rõ gái hay trai, xin vương hết lòng trông nom giúp đỡ”. Kịp khi sinh, thân thể trạng mạo đẹp đẽ khác người; Tạc nuôi dưỡng ở trong phủ. Nay Gia Tông mất không có con nối ngôi. Tạc bèn cùng các đại thần tôn lập Duy Hiệp làm vua (tức là Hy Tông), kể từ năm sau làm năm Vĩnh Trị thứ nhất, Đại xá cho trong nước.
Lời chua -Ngọc Tấn: Theo Ngọc phả triều Lê thì Trịnh Thị Ngọc Tấn có sách chép Ngọc Trúc, hiệu Từ Khánh, người xã Đông Khối, huyện Gia Định, không phải tộc thuộc của họ Trịnh ở Sóc Sơn. Gia Định nay là huyện Gia Bình.
Định rõ lại chế độ về chức việc của sáu bộ.
– Bộ Lại giữ sự vụ về quan tước, phong chức, ân ban, thuyên chuyển, lựa chọn, xét công trạng, truất bãi hoặc thăng thưởng, và giữ công việc bổ sung quan lại cho khỏi khuyết ngạch, cung cấp số người làm việc ở các nha môn.
– Bộ Hộ giữ sự vụ về ruộng đất, nhân dân, kho tàng, thu phát, và giữ công việc bổng lộc, đồ cống nạp, thuế khóa, muối và sắt.
– Bộ Lễ giữ sự vụ về lễ nghi, tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học, thi cử và giữ tiết mục về áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu, biểu văn, việc sứ thần đi cống nạp, việc các quan vào chầu mừng, lại kiêm cai quản các ngành tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, tăng lục, đạo lục, giáo phường và đồng văn nhã nhạc.
– Bộ Binh giữ sự vụ về việc binh nhung, quân cấm vệ, xe ngựa, đồ nghi trượng, khí giới, và giữ công việc biên giới, lính thú, nhà trạm, phố xá, nơi hiểm yếu và việc khẩn cấp.
– Bộ Hình giữ sự vụ về luật lệnh, hình phạt án từ, ngục tụng và xét xử người phạm tội ngũ hình.
– Bộ Công giữ sự vụ về thanh hào, cầu cống, đường sá, việc thổ mộc, việc thợ thuyền, và giữ việc tu sửa xây dựng, thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược và sông chằm.
Tháng 9, mùa thu. Bổ dụng hữu đô đốc Đặng Tiến Thự trấn thủ Nghệ An kiêm giữ chức đốc suất châu Bố Chính.
Lúc ấy, đốc suất Lê [Thì] Hiến mất, nên bổ Tiến Thự đến thay. Tiến Thự ở trấn, chính sự chuyên giữ giản dị, thanh tĩnh, nên trong hạt được yên vui.
Dùng Nguyễn Công Bích và Đào Công Chính vào chầu Kinh Diên.
Lúc ấy, nhà vua còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, nên dùng Công Bích và Công Chính vào chầu Kinh Diên để giúp đỡ nhà vua học tập.
Tháng 12, mùa đông. Đại hạn.
2790 Tức viên tri phủ tri huyện.
2791 Nay thuộc xã Lạc Đạo, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
2792 Nay thuộc tỉnh Hà Tây.
2793 Xem lời chua của Cương mục ở dưới. Về ngũ hình, ở đây Cương mục chỉ nói tội phạt trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử, còn tội phạt đánh bằng roi không thấy nói đến, có lẽ tội phạt đánh bằng roi không đặt thể lệ chuộc bằng tiền.
2794 nt.
2795 Sứ thần triều Nguyễn nhận từ Lê Thái Tổ đến Lê Chiêu Tông là Tiền Lê, từ Lê Trang Tông trở đi là Hậu Lê. Xem thêm lời chua của Cương mục chính biên quyển XXXIV, tờ 6.
2796 Thời Lê Thái Tổ: cận châu là Nghệ An, Viễn Châu là Bố Chính (xem thêm Chb. XV, 10). Còn thời Lê Trung Hưng có thay đổi thế nào, chưa rõ.
2797 Nt.
2798 Người giữ sổ sách giấy tờ, nói chung, người giữ công việc ở văn phòng các nha môn, nói riêng. Ở đây, có lẽ chỉ những người giữ sổ sách giấy tờ trong thôn trong xã như thư ký, thủ bạ, lý trưởng sau này.
2799 Ngày rằm tháng 7 âm lịch, ta thường gọi là ngày vong nhân xá tội.
2800 Tế thần theo tiết lễ hàng năm, rồi già trẻ cùng nhau ăn uống, vị thứ chỗ ngồi phần nhiều theo tuổi.
2801 Chỉ việc Trịnh Tạc đối với vua Lê.
2802 Theo quan điểm của sử gia xưa, chỉ có đạo Khổng Mạnh là chính đạo, ngoài ra các đạo học khác đều là dị đoan, nên họ chép đạo Gia Tô là dị đạo.
2803 Matteo Bicci (1552 – 1610) một giáo sĩ truyền đạo Gia tô của Ý Đại Lỵ.
2804 Cũng như Dã sử, sách của tư gia ở dân gian nghi chép, khác với sách của sử quan, nên gọi là Dã Lục.
2805 Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim phiên âm “I nê khu”, nhưng phải phiên là “I nê xu” mới đúng, vì chính tên là Ignatio.
2806 Nam Chân và Gia Thủy nay đều thuộc tỉnh Nam Định.
2807 Nt.
2808 Cương mục chua lầm. Hồi đầu triều Lê. Thái Tổ chia trong nước làm 5 đạo, ở đạo đặt vệ quân, ở vệ đặt chức tổng quản (Chb. XV, 5). Năm Quang Thuận thứ 7, Thánh Tông chia trong nước làm 12 đạo, ở đạo đặt Đô ty cùng với Thừa ty, chức tổng binh đứng đầu đô ty (Chb. XX, 8). Trong sử Cương mục có chỗ chép tắt là “tổng binh” , có chỗ chép đũ là “đô tổng binh sứ” (Chb. XX, 38). Còn chức đô tổng binh sứ đặt năm Hồng Đức thứ 2 là vì lúc ấy mới khai thác đạo Quảng Nam nên cũng theo như 12 đạo mà đặt đô tổng binh sứ ở Đô ty Quảng Nam, không phải đến năm Hồng Đức mới thêm vào là đô tổng binh sứ – chữ “sứ” trong câu đô tổng binh sứ chép ở đây Cương mục in lầm ra chữ “thuế”.
2809 Tức những người đã đỗ kỳ thi hương nay được vào thi hội, đáng lẽ phải chép là “hương cống” mới đúng, ở đây Cương mục chép “cử nhân” là sai vì triều Lê, người đỗ thi hương gọi là hương cống, đến năm Minh Mạng thứ 6 (1825) mới đổi gọi là cử nhân.
2810 Sĩ tử làm bài xong, đem quyển đệ nộp, sau khi đó, giám sinh, sinh đồ, hoặc lại điền theo nguyên văn mà viết tinh tường lại, thành một quyển khác.
2811 Sau khi đã viết lại rồi, lại phải đọc quyển nguyên văn để đối chiếu với quyển viết lại cho được đúng.
2812 Một danh sĩ đời Đường, thời đại Văn Tông nhà Đường (127-840). Lưu Phần đi thi, cực lực vạch mặt bọn hoạn quan chuyên quyền hại nước, quan trường sợ bọn hoạn quan, không dám lấy đỗ. Một người trong bọn thi đỗ nói: “Lưu Phần hỏng mà chúng ta đỗ, chả đáng mặt dầy lắm sao?”.
2813 Nguyên văn chép “thái a đảo trì”. Thái a là tên một thanh kiếm sắc bén; câu này ý nói người làm vua không biết giữ lấy quyền bính mà giao cho người khác, thì cũng như người có thanh kiếm sắt mà để người khác giữ đằng chuôi, mình giữ đằng lưỡi, tất nhiên bị hại.
2814 Đường: chỗ cao lớn tôn nghiêm, tượng trưng ngôi của vua chúa. Bệ: chỗ thấp bé, tượng trưng địa vị bầy tôi.
2815 Đổng Trác, Tào Tháo đều người cuối thời Đông Hán. Dưới triều Hán Hiến đế. Trác tự xưng là Thái sư, sau khi Trác bị Vương Doãn giết, Tháo tự xưng là Thừa tướng, Trác và Tháo đã lần lượt thay đỗi nhau uy hiếp Hán Hiến đế, nắm hết quyền bính trong nước.
2816 Lưu Dụ một viên tướng quốc nhà Tấn, giết An Đế và truất Cung Đế nhà Tấn, cướp lấy ngôi vua, tức là Tống Vũ đế của Nam triều trong thời kỳ Trung Quốc chia ra Nam Bắc Triều.
2817 Cương mục chép lầm là Khánh Đức.
2818 Năm thứ dùng để đong lường.
2819 Tức Thừa Chính sứ ti và Hiến Sát sứ ti.
2819 Những chức quan trong ngũ phủ thời Lê -Trịnh có nhiệm vụ bàn định các công việc ở trong phủ, tra xét những tờ khải tâu lên.
2820 nt.
2821 Xem thêm Chính biên quyển XX, tờ 2.
2822 Xem chú thích số 3 Chb. XXXIII, 4.
2823 Từ đây đến hết triều Lê, phàm nói “chính phủ” đều dùng nghĩa chính quyền trong phủ chúa Trịnh.
2824 Cũng như thượng tuần, hằng tháng tứ mồng 1 đến mồng 10.
2825 Bầy tôi sở truờng về văn từ.
2826 Ngôi nhà để vua thay áo.
2827 Ngôi nhà để vua ở đấy trai giới. Đời xưa, trong cung vua và ở đàn tế trời đất đều có trai cung, gặp năm nào làm lễ tế nam giao hoặc bắc giao, thì trước khi tế vua trai giới ở trai cung tại trong cung hai ngày và trai giới ở trai cung tại đàn một ngày.
2828 Xem Lý Anh Tông năm Đại Định thứ 15, Chính biên quyển V, tờ 6.
2829 Một danh từ để gọi viên quan trấn giữ biên giới, vì biên giới cũng giống như cái phên cái giậu bảo vệ cho đất nước, nên gọi viên quan có bổn phận giữ biên giới là “phiên thần”.
2830 Như những việc tranh nhau gia tài, tranh nhau đứng thừa tự, ẩn lậu dân đinh, trốn tránh phu đài tạp dịch, thuế khóa không công bằng v.v…
2831Như những việc vợ chồng ly dị, đuổi người ở gửi rễ để gả chồng cho con gái, vợ cả vợ lẽ tranh nhau ngôi thứ, đương có tang mà lấy vợ gã chồng, đã đi tu lại lấy vợ v.v…
2832 Thuộc Thanh Hóa, xã Quảng Nhuệ, Toàn thư in là Bạo Nhuệ. Đất huyện Lôi Dương cũ, nay thuộc hai huyện Thọ Xuân và Thường Xuân tỉnh Thanh Hóa.
2833 Chức quan trông coi việc giữ xe ngựa, trông coi nuôi ngựa thời Lê -Trịnh.
2834 Chức quan trông coi việc triều hội tân khánh, cát hung nghi lễ ở thời Lê -Trịnh.
2835 Nay là huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh.
2836 Nay là thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng huyện Thanh Trì, Hà Nội.
2837 Thanh Hóa.
2838 Tức Quảng Đông, Quảng Tây.
2839 Tiêu Hà và Tào Tham danh thần đời nhà Hán, Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối danh thần đời nhà Đường. Bốn người đều không do khoa mục xuất thân. Trịnh Tạc viện dẫn ra để giải thích cho những người nghi ngờ về tư cách Duy Chí, vì Duy Chí do lại điền xuất thân.
2840 Tức ngày mồng một tháng giêng âm lịch hàng năm.
2841 Chức quan võ ở hàm chánh nhị phẩm.
2842 Chức quan võ ở hàng tòng nhị phẩm.
2843 Bây giờ là huyện Đoan Hùng thuộc Phú Thọ.
2844 Nơi vua chúa đọc sách.
2845 Thú: do chữ “thái thú” nói tắt, một danh từ để gọi chức tri phủ. Lệnh: do chữ “lệnh doãn” nói tắt, một danh từ để gọi chức tri huyện. Ở đây chép “thú lệnh” là nói chung cả tri phủ và tri huyện.
2846 Chế độ nhà Thanh: Binh lính người Hán đều dùng cờ màu lục. Đơn vị của binh lính này ở các tỉnh gọi là trấn tiêu, do viên tổng binh quản lãnh.
2847 Xem thêm chính biên quyển XXXIII, tờ 28 trên.
2848 Việc Trịnh Ốc sai quân đuổi giết được Vũ Công Tuấn Sử cũ (tức Toàn thư) chép nhầm vào năm Dương Đức thứ nhất, chứ không phải chép nhầm vào năm Cảnh Trị thứ 7 như lời cẩn án của Cương mục.
2849 Tức quân của Nguyễn Phúc Tần.
2850 Một viên quan đã về hưu trí, hoặc vì cớ gì đó mà phải về nghĩ nay lại triệu ra làm quan gọi là khởi phục.
2851 Binh chế và thời Lê trung hưng: quân lính lấy ở Thanh Nghệ gọi là ưu binh, lấy ở tứ trấn gọi là nhất binh (“binh chế chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú).
2852 Ưu binh Thanh Nghệ, gọi chung là “tam phù bình” , xem thêm chính biên quyển XLV, tờ 32.
2853 Chữ “Trinh” này đáng lẽ phải chép là “Khôi”, mới đúng với nguyên văn của Sử cũ.
2854 Cấp bậc phi tần trong nội cung. Xem thêm Chính biên quyển XXIII, tờ 16, 17 về cấp bậc của tần.
2855 Thuộc tỉnh Thanh Hóa.
2856 Thuộc tỉnh Thanh Hóa.