1309. Buồng the phải buổi thong dong,
1310. Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
1311. Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
1312. Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
1313. Sinh càng tỏ nét càng khen,
1314. Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
1315. Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng.
1316. Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
1317. Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
1318. Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
1319. Lòng còn gửi áng mây vàng,
1320. Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
1310. Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
1311. Rõ màu trong ngọc trắng ngà,
1312. Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
1313. Sinh càng tỏ nét càng khen,
1314. Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
1315. Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng.
1316. Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
1317. Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
1318. Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
1319. Lòng còn gửi áng mây vàng,
1320. Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
tranh Lê Văn Đệ (1906-1966)
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
Chú giải
- (1309) buồng the: buồng treo màn the. Chỉ buồng đàn bà con gái ở.
- (1309) thong dong: thong thả, thư thái, không vội vàng. Xem chú giải (0693) thong dong.
- (1310) thang lan: Sở từ 楚辭: Dục lan thang hề mộc phương 浴蘭湯兮沐芳 (Cửu ca 九歌, Vân trung quân 雲中君) Tắm bằng nước nóng nấu hoa lan và gội bằng hoa thơm.
- (1310) tắm hoa: § Khảo dị: có bản ghi là “tẩm hoa”. 2 câu 1309-1310: (lược ngữ) một hôm vào lúc thong thả Kiều vào buồng the tắm nước nóng nấu với hoa lan thơm
- (1312) một tòa thiên nhiên: 2 câu 1311-1312: (lược ngữ) Kiều tắm bày ra lồ lộ một thân hình trắng nuốt ngọc ngà rất đẹp một cách tự nhiên.
- (1313) sinh càng tỏ nét càng khen: (lược ngữ) Thúc sinh càng được ngắm nhìn từng đường nét thân thể nàng Kiều càng phải thốt lời khen đẹp.
- (1314) ngụ tình: # chữ nôm khắc là “tả tình”. Tạm ghi âm đọc là “ngụ tình” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (1314) một thiên: một bài (thơ, văn, nhạc…). Xem chú giải (0034) một thiên.
- (1314) luật Đường: theo luật thơ đời nhà Đường.
- (1315) nàng rằng: # chữ nôm khắc là “nàng càng”. Tạm ghi âm đọc là “nàng rằng” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (1316) châu ngọc: # chữ nôm khắc là “châu nguyệt”. Tạm ghi âm đọc là “châu ngọc” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (1317) nối điêu: bởi chữ tục điêu 續貂. Có nhiều nghĩa: (1) ngày xưa các quan hầu cận vua lấy đuôi con điêu để trang sức trên mũ; (2) nhậm dụng chức quan quá lạm, đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó thay vào; (3) sau dùng “cẩu vĩ tục điêu” 狗尾續貂 để chế giễu việc phong tước quá lạm; (4) tỉ dụ lấy cái kém nối theo cái tốt, trước sau không tương xứng. Thường dùng làm lời tự khiêm. § Trong câu 1317, “nối điêu” là lời Kiều nhún mình không sẵn sàng họa lại thơ của Thúc sinh.
- (1318) nỗi quê: có thể hiểu là lòng nghĩ riêng của Kiều (về một hai điều: lòng nhớ quê hương cha mẹ và những gì khác nữa khó diễn tả — mà Kiều sẽ nói thêm ở những đoạn sau (1319-1320, 1325-1328, 1333-1360): “ngang trái”, “chán chường”, “chương chướng”, “ngờ vực tình yêu chân thật của Thúc sinh”, “lo ngại về thân phận làm vợ lẽ”, v.v.)
- (1318) ngang ngang: ngang = không thẳng, không thuận, không hợp với, trái, nghịch, ngược (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt). “Một hai điều ngang ngang” = vài điều trong lòng Kiều đang làm nàng băn khoăn trăn trở không yên. 2 câu 1317-1318: (lược ngữ) Kiều nói với Thúc sinh rằng, dù hay hay dở, đáng lẽ phải họa lại bài thơ của Thúc sinh, nhưng nàng đang vì nhiều nỗi niềm riêng dằn vặt, nên không còn lòng nào mà làm thơ họa với Thúc sinh được. § Xem nguyên truyện: Thúy Kiều đạo: … Thừa quân quá ái, cấp dục nhất họa. Ngẫu hốt động trần ngoại chi tưởng, bút vi hương tư sở các, cô sĩ tha nhật 翠翹道: … 承君過愛, 急欲一和. 偶忽動塵外之想, 筆為鄉思所閣, 姑俟他日 (Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Hồi 11) Thúy Kiều nói: … Đội ơn chàng quá yêu, thiếp cũng muốn họa thơ chàng ngay. Song lòng chợt đương băng hăng chuyện nhớ nhà và những chuyện khác nữa, xin chàng đợi một ngày khác.
- (1319) áng mây vàng: Cổ thi: Thiên thượng hoàng vân ảnh, Du tử hà thì quy 天上黄雲影, 遊子何時歸 Trên trời có bóng mây vàng, Con đi bao giờ về. Ghi chú: cả câu ý nói Kiều nhớ cha mẹ. § Khảo dị: có bản chép là “mây Hàng” theo nghĩa trong điển tích sau đây: Địch Nhân Kiệt 狄仁傑 đi làm quan xa, một hôm lên núi Thái Hàng vọng về cố hương, thấy mây trắng bay, nhớ tới cha mẹ, bảo với người chung quanh rằng: Ngô thân xá kì hạ 吾親舍其下 Nhà cha mẹ ta ở dưới kia kìa (Tân Đường thư 新唐書, Địch Nhân Kiệt truyện). Tuy nhiên, trong tích Địch Nhân Kiệt nói đến “mây trắng” chứ không phải “mây vàng”.