1381. Một nhà sum họp trúc mai,
1382. Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
1383. Hương càng đượm lửa càng nồng,
1384. Càng xôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
1385. Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
1386. Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
1387. Giậu thu vừa nảy giò sương,
1388. Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
1389. Phong lôi nổi trận bời bời,
1390. Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
1391. Quyết nghe biện bạch một bề,
1392. Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
1382. Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
1383. Hương càng đượm lửa càng nồng,
1384. Càng xôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
1385. Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
1386. Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
1387. Giậu thu vừa nảy giò sương,
1388. Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
1389. Phong lôi nổi trận bời bời,
1390. Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
1391. Quyết nghe biện bạch một bề,
1392. Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
Chú giải
- (1381) trúc mai: nói về tình nghĩa vợ chồng đầm ấm. Xem chú giải (0708) trúc mai.
- (1384) xôi vẻ ngọc: “xôi” nghĩa là hiện ra ngoài; “xôi vẻ ngọc” vẻ đẹp lộ ra ngoài (theo Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim). § Khảo dị: có bản ghi là “sôi vẻ ngọc”. Cả câu 1384: (lược ngữ) Thúy Kiều từ ngày lấy Thúc sinh càng thêm xinh đẹp và càng lộ vẻ cao quý sang trọng (Nguyễn Quảng Tuân, Bản nôm 1866, trang 465).
- (1384) lồng màu sen: “lồng” nghĩa là lộng lẫy, nổi rõ; “lồng màu sen” màu sắc đẹp rực rỡ.
- (1385) hơi tiếng vừa quen: tục ngữ “quen hơi bén tiếng”. Tức là ăn ở với nhau bắt đầu quen thuộc nhau rồi.
- (1386) sân ngô: “ngô” là cây ngô đồng 梧桐. Có thơ rằng: Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu 梧桐一葉落, 天下共知秋 Một lá ngô đồng rụng, Ai cũng biết là mùa thu đến.
- (1387) giậu thu: thu li 秋籬 bờ rào mùa thu.
- (1387) giò sương: chồi hoa cúc gặp sương mọc ra. Tô Thức 蘇軾: Cúc tàn do hữu ngạo sương chi 菊残犹有傲霜枝 (Tặng Lưu Cảnh Văn 贈劉景文) Hoa cúc tuy tàn nhưng hãy còn những chồi coi thường gió sương.
- (1388) gối yên: yên chẩm 鞍枕 yên ngựa và gối dựa.
- (1388) xuân đường: tiếng kính gọi cha. Xem chú giải (0534) xuân đường.
- (1389) phong lôi: 風雷 gió và sấm. Nghĩa bóng là cơn giận ầm ầm (như sấm sét, như gió bão).
- (1389) nổi trận: # chữ nôm “trận” khắc là ⿰忄車 (bộ thủ Tâm + viết bớt nét của 陣 trận), thường đọc là “giận”. Tạm ghi là âm đọc là “trận” theo nhiều bản quốc ngữ phổ biến khác.
- (1389) bời bời: hoài mãi, nhiều lắm, rất nhiều. Xem chú giải (0178) bời bời.
- (1390) e ấp: lo sợ, ngại ngùng, không quả quyết. § Theo nguyên truyện, Thúc ông rất lấy làm e sợ việc Thúc sinh lấy vợ lẽ. Thúc ông mắng con rằng: Nhĩ giá xuẩn tài (…) Nhĩ trượng nhân thị thậm đẳng nhân, nhĩ thê tử thị hầu môn tiểu thư, nhược thị hiểu đắc nhĩ thảo liễu tiểu, kích đắc san cao thủy đê, nhĩ thị bãi liễu, khiếu ngã chẩm ma đào đắc giá khí quá? 你這蠢才, (…) 你丈人是甚等人, 你妻子是侯門小姐, 若是曉得你討了小, 激得山高水低, 你是罷了, 叫我怎麼淘得這氣過 (Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Hồi 12) Mày là thằng ngu xuẩn… Mày phải biết cha vợ mày là bậc người thế nào? Vợ mày là một tiểu thư nhà quyền quý. Nếu vợ mày biết tin mày lấy vợ lẽ, mà nổi giận đùng đùng, thì mày bảo tao làm sao chịu nổi cái lòng giận dữ của nó.
- (1390) tính bài: liệu cách, tìm mưu kế. Xem chú giải (0342) liệu bài.
- (1390) phân chia: chia rẽ. § Cả câu 1390 ý nói Thúc ông rất lo ngại về việc Thúc sinh sống chung với nàng Kiều và tìm cách chia rẽ hai người.
- (1391) biện bạch: 辨白 nói rõ sự tình.
- (1392) má phấn: phấn diện 粉面 mặt phấn, mượn chỉ người đẹp (ở đây là Thúy Kiều).
- (1392) lầu xanh: chỗ con hát ở, kĩ viện. Xem chú giải (0809) lầu xanh.