1789. Lần lần tháng lụn ngày qua,
1790. Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
1791. Lâm Tri từ thuở uyên bay,
1792. Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
1793. Mày xanh trăng mới in ngần,
1794. Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa.
1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,
1796. Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
1797. Tìm đâu cho thấy cố nhân?
1798. Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
1799. Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
1790. Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
1791. Lâm Tri từ thuở uyên bay,
1792. Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
1793. Mày xanh trăng mới in ngần,
1794. Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa.
1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,
1796. Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
1797. Tìm đâu cho thấy cố nhân?
1798. Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
1799. Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Chú giải
- (1789) tháng lụn: “lụn” nghĩa đen là ngắn ngủi; nghĩa bóng: giảm bớt, hao hụt (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (1791) Lâm Tri: tên huyện nơi Thúc sinh và Kiều đã sống một năm dài hạnh phúc trước khi Kiều bị mất tích (mà Thúc sinh tưởng là đã chết cháy) trong một đêm hỏa hoạn kinh hoàng. Xem chú giải (0920) Lâm Tri.
- (1791) uyên bay: uyên ương 鴛鴦 giống chim cứ đi đôi với nhau; tỉ dụ vợ chồng không rời nhau. Ghi chú: “uyên bay” nghĩa là chim uyên ương rẽ nhau bay đi, tức là vợ chồng chia li.
- (1792) kẻ: chỉ Thúc sinh (đang sống một mình ở Lâm Tri).
- (1792) chiếc thân: lẻ loi, chiếc bóng, một thân một mình.
- (1793) mày xanh: lông mày kẻ phấn xanh (của người đẹp).
- (1793) trăng mới: trăng đầu tháng.
- (1793) in ngần: in thành vết. § Cả câu ý nói Thúc sinh trông vành trăng lưỡi liềm, giống như lông mày của Thúy Kiều, mà nhớ người cũ (theo Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim).
- (1794) phấn thừa: thặng phấn 剩粉 phấn còn thừa lại.
- (1794) hương cũ: dư hương 餘香 mùi thơm còn lưu lại; hương liệu còn thừa lại.
- (1795) sen tàn cúc lại nở hoa: cảnh hết hạ sang thu. # chữ nôm khắc là “sen tàn mai lại nở ra”. Tạm ghi theo bản nôm Tăng Hữu Ứng 1874.
- (1796) đông đà sang xuân: mùa đông đã sang mùa xuân. § 2 câu 1795-1796 ý nói nỗi buồn thì dài mà tháng ngày ngắn ngủi; một năm đã vùn vụt trôi qua.
- (1797) cố nhân: 故人 (1) người thân yêu cũ, bạn cũ; (2) vợ trước; (3) người đã chết. Ghi chú: Thúc sinh gọi Kiều là cố nhân (nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba).
- (1798) vận mệnh: 運命 số mệnh, chỉ tất cả những sự việc gặp trên đời: sống chết, giàu nghèo, v.v. § Thúc sinh muốn tin theo thuyết số mệnh cho khuây khỏa nỗi nhớ thương Kiều.
- (1798) khuây: nguôi, nguôi ngoai, không còn buồn phiền, không còn nhớ đến nữa. Xem chú giải (0246) khuây.
- (1799) gia hương: 家鄉 quê nhà, cố hương. § Một năm trước, ở quê hương Vô Tích, Thúc sinh đã nghĩ: Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ (câu 1595). Xem thêm chú giải (1595) giang hồ.