0433. Nhặt thưa gương gối đầu cành,
0434. Ngọn đèn trông thấy trướng huỳnh hắt hiu.
0435. Sinh vừa tựa án thiu thiu,
0436. Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
0437. Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
0438. Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
0439. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
0440. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
0441. Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
0442. Vì hoa cho phải trổ đường tìm hoa.
0443. Bây giờ rõ mặt đôi ta,
0444. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
0434. Ngọn đèn trông thấy trướng huỳnh hắt hiu.
0435. Sinh vừa tựa án thiu thiu,
0436. Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
0437. Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
0438. Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
0439. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
0440. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
0441. Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
0442. Vì hoa cho phải trổ đường tìm hoa.
0443. Bây giờ rõ mặt đôi ta,
0444. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
Chú giải
- (0434) trướng huỳnh: màn đom đóm. Bởi chữ huỳnh trướng 螢帳 hay huỳnh song 螢窗. Đời Tấn, Xa Dận 車胤 nhà nghèo không có dầu thắp đèn, bắt đom đóm lấy ánh sáng mà đọc sách (Tấn Thư 晉書, Xa Dận truyện 車胤傳).
- (0437) tiếng sen: tiếng bước chân đi. Xem chú giải (0190) sen vàng.
- (0437) giấc hòe: giấc mộng, giấc chiêm bao. Điển cố: Thuần Vu Phần 淳于棼 uống rượu say, nằm mơ được vinh hoa phú quý trong ba mươi năm ở Hòe An quốc 槐安國, tỉnh giấc, chén thừa còn đó, nhìn thấy tổ kiến ở dưới cành nam cây hòe, chính là quận Nam Kha 南柯 trong mộng (Lí Công Tá 李公佐傳, Nam Kha thái thú truyện 南柯太守傳). Về sau người ta lấy Hòe An mộng 槐安夢 để tỉ dụ đời người như giấc mơ, phú quý được mất vô thường.
- (0438) bóng trăng đã xế hoa lê lại gần: Điển cố: Nguyệt di hoa ảnh, nghi thị ngọc nhân lai 月移花影, 疑是玉人來 (Tây Sương Kí 西廂記, Đệ tứ bổn, Đệ nhất chiết) Ánh trăng xê dịch bóng hoa, ngờ là có người đẹp đi tới.
- (0439) đỉnh Giáp: bởi chữ Vu Giáp 巫峽 (còn gọi là Vu Sơn 巫山). Thành ngữ Vu Sơn vân vũ 雲雨 nói về việc nam nữ hoan hợp. Điển cố: Thời Chiến Quốc, hai vua Sở Hoài Vương và Tương Vương đi chơi Cao Đường, nằm mộng thấy một người đàn bà rất đẹp đến cùng chăn gối. Hỏi là người ở đâu, thưa rằng: Thiếp là thần nữ ở núi Vu Giáp, sớm làm mây, tối làm mưa (Tống Ngọc 宋玉, Thần nữ phú 神女賦, Tự 序).
- (0439) non Thần: tức Thần Châu 神州, núi tiên ở.
- (0442) trổ đường: mở ra con đường, tìm đường. § Khảo dị: có bản nôm ghi là “đánh đường”.
- (0444) chiêm bao: xem chú giải (0214) chiêm bao. Điển cố: Thẩm vấn minh bạch, chỉ nghi thị tạc dạ mộng trung lai 審問明白, 只疑是昨夜夢中來 (Tây Sương Kí 西廂記, Đệ tứ bổn, Đệ nhất chiết). Nhượng Tống dịch thơ: Lẽ nào nhìn thấy rõ ràng, Lại là trong giấc mơ màng gặp nhau. Ghi chú: chỗ này Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim đã trích dẫn một câu không có trong Tây Sương Kí: Dữ ngã thật thị minh bạch, an tri bất thị mộng trung lai 與我實是明白, 安知不是夢中來. § Cả đoạn 0433-0444: (lược ngữ) Kiều về thăm tin nhà rồi lại trở sang phòng trọ Kim Trọng. Kim Trọng đương mơ màng nửa tỉnh nửa mê, khi thấy Thúy Kiều đến, lại tưởng là thần nữ ở Vu Sơn. Kiều phải nói rõ rằng chính vì chàng (chữ “hoa” trong câu 0442) nên đã tự mở đường tìm đến gặp chàng đây. § Góp ý: Trong 4 câu cuối 0441-0444 Kiều tỏ ra rất táo bạo và đầy sôi nổi đam mê. Lời nàng về hai chữ “chiêm bao” thấm đượm triết lý Trang Chu và lẽ vô thường của nhà Phật. Tưởng cũng lạ cho một cô gái nhà khuê các tuổi chưa quá đôi mươi.