1237. Mặt sao dày gió dạn sương,
1238. Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
1239. Mặc người mưa Sở mây Tần,
1240. Nhưng mình nào biết có xuân là gì.
1241. Đòi phen gió tựa hoa kề,
1242. Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
1243. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
1244. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
1245. Đòi phen nét vẽ câu thơ,
1246. Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa,
1247. Vui là vui gượng kẻo là,
1248. Ai tri âm đó mặn mà với ai?
1238. Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
1239. Mặc người mưa Sở mây Tần,
1240. Nhưng mình nào biết có xuân là gì.
1241. Đòi phen gió tựa hoa kề,
1242. Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
1243. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
1244. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
1245. Đòi phen nét vẽ câu thơ,
1246. Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa,
1247. Vui là vui gượng kẻo là,
1248. Ai tri âm đó mặn mà với ai?
tranh http://www.4rkinggame.com/t1466-topic
Đòi phen nét vẽ câu thơ, Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Chú giải
- (1238) bướm chán ong chường: (đảo ngữ) ong bướm chán chường. Ý nói chán ngán cuộc đời gái lầu xanh, ong bướm phong tình, bán phấn mua hương. # chữ nôm “chường” khắc sai thành 星 (tinh). Chữ đúng: 呈 (trình).
- (1239) mưa Sở mây Tần: Tần vân Sở vũ 秦雲楚雨 bốn chữ này mang hơi hướm bài thơ Giang chiết thượng 江浙上 của Tư Không Đồ 司空圖: Tần vân Sở vũ ám tương hòa 秦雲楚雨暗相和. Hai chữ “mây mưa” (ái ân trai gái) gợi đến bài Thần nữ phú 神女賦 của Tống Ngọc 宋玉. Xem thêm chú giải (0513) mây mưa.
- (1240) nào biết có xuân là gì: (lược ngữ) người ta chung quanh miệt mài hưởng thụ ăn chơi hoan lạc cùng nhau, riêng Kiều không cảm thấy vui thú gì cả (câu 1239-1240).
- (1241) đòi phen: nhiều lần, nhiều lúc. Xem chú giải (0788) đòi phen.
- (1241) tựa: # chữ nôm khắc sai nét. Chữ đúng ⿰扌序 (bộ Thủ+tự).
- (1242) tuyết ngậm bốn bề: # chữ nôm khắc là “mây ngỏ bốn mùa”; chữ “bốn” khắc là 罰 (phạt) thay vì chữ đúng là: ⿱罒本 (tứ/bổn). Chữ “mùa” không hợp vần với câu 6 chữ ở trên. Tạm ghi âm đọc là “tuyết ngậm bốn bề” theo bản quốc ngữ của Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim. § Khảo dị: bản nôm Duy Minh Thị 1872 chép là: “tuyết ngậm bốn hè” (bốn hè = bốn hè nhà).
- (1242) trăng thâu: trăng chiếu sáng.
- (1245) vẽ: # chữ nôm khắc sai nét. Một dạng chữ đúng: ⿺尾文 (vĩ+văn).
- (1246) cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa: 2 câu 1245-1246: có đủ 4 thú vui tao nhã (cầm kỳ thi họa) cho Kiều và khách làng chơi. # chữ nôm “cung” khắc sai thành 官 (quan). Chữ đúng: 宮 (cung).
- (1248) tri âm: người cùng hiểu biết nhau, có cùng chí hướng. Xem chú giải (0386) tri âm.
- (1248) mặn mà: đậm đà, có duyên. Xem chú giải (0023) mặn mà. § 2 câu 1247-1248: (lược ngữ) trong cuộc sống của gái lầu xanh, đắm chìm trong vui thú cùng khách làng chơi, Kiều chỉ cảm thấy gượng gạo nhạt nhẽo, vì không có ai là kẻ hiểu biết chia sẻ tâm tình chí hướng với mình.