1921. Áo xanh đổi lấy cà sa,
1922. Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
1923. Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
1924. Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà.
1925. Nàng từ lánh dấu vườn hoa,
1926. Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng.
1927. Nhân duyên đâu lại còn mong,
1928. Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
1929. Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930. Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương.
1931. Cho hay giọt nước cành dương,
1932. Lò lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
1922. Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
1923. Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
1924. Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà.
1925. Nàng từ lánh dấu vườn hoa,
1926. Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng.
1927. Nhân duyên đâu lại còn mong,
1928. Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
1929. Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930. Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương.
1931. Cho hay giọt nước cành dương,
1932. Lò lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Chú giải
- (1921) áo xanh: áo mặc màu xanh của những tì nữ, con hầu. Xem chú giải (1745) thanh y.
- (1921) cà sa: 袈裟 (tiếng Phạm: kaṣāya) áo mặc của người xuất gia. Giới luật Phật giáo quy định: Người xuất gia không được dùng năm chính sắc (đỏ, vàng, xanh, trắng, đen), may áo bằng nhiều mảnh vải đủ màu sắc ghép lại.
- (1922) pháp danh: 法名 tên trong Phật pháp, (…) khác với tên người thế tục (tục danh). Người được trao cho Pháp danh trong Phật giáo chứng tỏ rằng người ấy đã là đệ tử xuất gia hoặc tại gia của đức Phật, sống theo nếp sống đạo hạnh, đúng với lời dạy của đức Phật (Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典).
- (1922) Trạc Tuyền: 濯泉 Thúc sinh nhận lời Hoạn thư chọn cho Thúy Kiều pháp danh là “Trạc Tuyền”.
- (1924) hương trà: 香茶 thắp hương pha trà.
- (1924) Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà: Xuân Hoa 春花 và Thu Nguyệt 秋月 là tên hai đứa hầu gái, lo việc thắp hương pha trà. § Nguyên truyện: Chúc tất, phân phó Xuân Hoa, Thu Nguyệt đạo: Tả kinh phi đẳng nhàn sự, nhĩ nhị nhân tu phục thị ân cần. Trà hát thực dụng bất khả đoạn khuyết, hoán thủy thiêu hương, phanh trà tảo địa, câu nhĩ nhị nhân chức nhậm 祝畢, 分咐春花, 秋月道: 寫經非等閒事, 你二人須服侍殷勤. 茶喝食用不可斷缺, 換水燒香, 烹茶掃地, 俱你二人職任 (Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Hồi 16) Hoạn thư khấn xong, quay ra dặn hai đứa hầu tên là Xuân Hoa và Thu Nguyệt: Viết kinh chẳng phải việc nhàn rỗi, hai đứa bay phải lo hầu hạ ân cần. Trà uống thức ăn không được thiếu hụt, thay nước thắp hương, nấu trà quét dọn, đều là phận sự của hai đứa bay.
- (1925) lánh dấu vườn hoa: ra vườn hoa (ở gác Quan Âm) không ở trong nhà nữa. § Khảo dị: có bản chép là “lánh gót vườn hoa”.
- (1926) rừng tía: tử lâm 紫林, tử trúc lâm 紫竹林 chỗ bồ tát Quan Thế Âm ở. § Ghi chú: ở đây nghĩa là cõi Phật.
- (1926) bụi hồng: cõi đời, thế tục, trần tục. Xem chú giải (0250) bụi hồng.
- (1927) nhân duyên: 因緣 (thuật ngữ Phật giáo) “nhân” 因 là nguyên nhân bên trong trực tiếp sinh ra kết quả; “duyên” 緣 chỉ cho nguyên nhân gián tiếp giúp đỡ bên ngoài. Hết thảy vạn hữu đều do nhân duyên hòa hợp mà giả sinh, không có tự tính, đó chính là lí “nhân duyên tức không” 因緣即空 (Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典). § Ghi chú: cả câu 1927 có thể hiểu theo nghĩa thông thường như sau: Kiều hết còn hy vọng hàn gắn lại duyên vợ chồng với Thúc sinh nữa.
- (1928) khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi: (lược ngữ) Kiều chỉ mong không phải tủi thẹn với mặt phấn má hồng nữa.
- (1929) Phật tiền: trước Phật đài.
- (1929) Phật tiền thảm lấp sầu vùi: (đảo ngữ) những nỗi thảm sầu đều tiêu tan (bị vùi lấp) hết khi Kiều ở trước Phật đường.
- (1930) pho thủ tự: 手字 cuốn kinh Phật tự mình viết bằng tay. § Ghi chú: Kiều có phận sự chép kinh Phật ở Quan Âm các.
- (1930) nồi tâm hương: 心香 = hương thơm của lòng; nồi hương = bát hương lớn. § Người học Phật với tấm lòng chân thành cung kính thì tự cảm đến Phật, không khác gì đốt hương cúng dường Phật (Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典). § 2 câu 1929-1930: ý gần sát với nguyên truyện: Kim chánh hảo kiền thành lục kinh bái Phật, dĩ tiêu nghiệt trái 今正好虔誠錄經拜佛, 以消孽債 (Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Hồi 16) Bây giờ chính là lúc mình phải hết lòng chép kinh Phật lễ Phật để trả sạch nợ nghiệt chướng.
- (1931) giọt nước cành dương: dương chi tịnh thủy 楊枝淨水 trong phép tu hành dùng cành dương nước sạch kính dâng bồ tát. ◇Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林: Ngã kim dĩ cụ dương chi tịnh thủy, duy nguyện đại từ ai mẫn nhiếp thụ, nguyện cứu ngã ách (…) ngã kim khể thủ quy y phụng thỉnh 我今已具楊枝淨水, 惟願大慈哀愍攝受, 願救我厄(…)我今稽首歸依奉請 (Quyển thất tứ) Tôi nay cụ bị cành dương nước sạch, kính xin bậc đại từ thương xót nhiếp thụ, mong cứu tôi khỏi tai ách (…) tôi nay lạy sát đầu dưới đất đảnh lễ quy y phụng thỉnh.
- (1932) lò lòng: cái lò trong lòng, cũng như “lửa lòng”, tức là “tâm hỏa” 心火 = lửa trong lòng nóng nảy, phiền muộn, kích động, giận dữ, v.v. § Khảo dị: có bản viết là “lửa lòng”.
- (1932) trần duyên: 塵緣 tức 6 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì 6 trần là những chỗ mà tâm duyên theo, thường làm ô nhiễm tâm tính, nên gọi là “trần duyên” (Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典).