0505. Đã cho vào bậc bố kinh,
0506. Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
0507. Ra tuồng trên bộc trong dâu,
0508. Thì con người ấy ai cầu làm chi!
0509. Phải điều ăn xổi ở thì,
0510. Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
0511. Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay,
0512. Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.
0513. Mây mưa đánh đổ đá vàng,
0514. Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
0515. Trong khi chắp cánh liền cành,
0516. Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
0506. Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
0507. Ra tuồng trên bộc trong dâu,
0508. Thì con người ấy ai cầu làm chi!
0509. Phải điều ăn xổi ở thì,
0510. Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
0511. Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay,
0512. Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.
0513. Mây mưa đánh đổ đá vàng,
0514. Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
0515. Trong khi chắp cánh liền cành,
0516. Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
tranh Nguyễn Văn Tỵ (1917-1992)
Quá chiều nên đã chán chường yến anh
Chú giải
- (0505) bố kinh: bố quần kinh thoa 布裙荆釵. Nàng Mạnh Quang 孟光 là con gái một vị tướng quốc, lấy ẩn sĩ Lương Hồng 梁鴻. Lúc về nhà chồng bỏ hết quần áo gấm vóc và các đồ trang sức bằng vàng ngọc, mặc quần vải, gài thoa gai, theo chồng vui cảnh nghèo. Người sau dùng chữ bố kinh để chỉ người vợ hiền.
- (0507) trên bộc trong dâu: Tang gian Bộc thượng 桑間濮上. Ngày xưa trai gái nước Vệ 衛 gặp nhau lén lút xướng hát tình ca ở đất Tang và trên bờ sông Bộc. Sau “tang gian bộc thượng” chỉ chỗ trai gái hẹn hò dâm bôn.
- (0509) ăn xổi ở thì: (tiếng Thái: xổi = ở rỗi; tiếng Thái: xuối = qua loa, sơ sài) “ăn xổi ở thì” = sống qua loa sơ sài, tạm bợ qua ngày (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (0510) tiết trăm năm: lòng trung trinh giữ suốt đời (theo Đào Duy Anh). Xem chú giải (0001) trăm năm trong cõi. # chữ nôm khắc là “rằng trăm năm”. Tạm ghi âm là “tiết trăm năm” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (0511) kì ngộ: cuộc gặp gỡ lạ thường. Xem chú giải (0260) kì ngộ.
- (0512) tày: ngang bằng, so với, ngang ngửa, xấp xỉ. Thí dụ: chuyện tày trời (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (0512) Thôi Trương: tức là nàng Thôi Oanh Oanh 崔鶯鶯 và chàng Trương Củng 張珙, nhân vật chính trong vở Tây Sương Kí 西廂記. Hai người gặp gỡ ở Mái Tây chùa Phổ Cứu, tốt đôi phải lứa, yêu nhau thắm thiết, nhưng về sau không lấy nhau.
- (0513) mây mưa: bởi chữ vân vũ 雲雨. Chỉ việc nam nữ hoan hợp. Điển cố: Thời Chiến Quốc, hai vua Sở Hoài Vương và Tương Vương đi chơi Cao Đường, nằm mộng thấy một người đàn bà rất đẹp đến cùng chăn gối. Hỏi là người ở đâu, thưa rằng: Thiếp là thần nữ ở núi Vu Giáp, sớm làm mây, tối làm mưa (Tống Ngọc 宋玉, Thần nữ phú 神女賦, Tự 序).
- (0513) đá vàng: lời thề nguyền bền chặt như vàng như ngọc. Xem chú giải (0352) đá vàng.
- (0514) quá chiều: chiều lòng quá dễ dãi; cũng có thể hiểu là quá mức, quá độ.
- (0514) chán chường: (tiếng Mon: chan = không ham thích, không thèm muốn; tiếng Nùng: chán = lơ là không thiết; tiếng Thái: cháng = nản lòng, không còn nồng nàn); “chán chường” nghĩa là “không còn ham thích, thèm muốn, nồng nàn với nhau nữa” (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (0514) yến anh: đông, nhiều (như chim én, chim anh). Xem chú giải (0045) yến anh. § cả câu 0514: (lược ngữ) vì đã dễ dãi từng trải quá nhiều quá mức những xôn xao ong bướm dập dìu yến anh, nên chán ngán nhau hết rồi.
- (0515) chắp cánh liền cành: ở trên trời như chim chắp cánh cùng nhau, ở dưới đất như cây cành liền thớ với nhau. Điển cố: Bạch Cư Dị 白居易: Tại thiên nguyện tác bỉ dực điểu, Tại địa nguyện vi liên lí chi 在天願作比翼鳥, 在地願為連理枝 (Trường hận ca 長恨歌) Tản Đà dịch thơ: Xin kết nguyện chim trời liền cánh, Xin làm cây cành nhánh liền nhau. # chữ nôm khắc là “tựa cánh trên cành”. Tạm ghi âm là “chắp cánh liền cành” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (0516) mà lòng rẻ rúng đã dành một bên: (lược ngữ) mà sự khinh rẻ lúc nào cũng sẵn ở trong lòng rồi. # chữ nôm khắc là “mà lòng ngâm ngợi đã chiềng một phen”. Tạm ghi âm là “mà lòng rẻ rúng đã dành một bên” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.