0181. Người đâu gặp gỡ làm chi,
0182. Trăm năm biết có duyên gì hay không?
0183. Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
0184. Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
0185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
0186. Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
0187. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
0188. Có chiều phong vận có chiều thanh tân,
0189. Sương in mặt tuyết pha thân,
0190. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
0191. Liền mừng đón hỏi dò la:
0192. Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
0182. Trăm năm biết có duyên gì hay không?
0183. Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
0184. Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
0185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
0186. Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
0187. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
0188. Có chiều phong vận có chiều thanh tân,
0189. Sương in mặt tuyết pha thân,
0190. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
0191. Liền mừng đón hỏi dò la:
0192. Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Chú giải
- (0181) người đâu: chỉ Kim Trọng.
- (0184) nên câu tuyệt diệu: làm được câu thơ văn cực hay. Bởi bốn chữ tuyệt diệu hảo từ 絕妙好辭. Điển cố: Dương Tu đọc tám chữ khắc trên bia của nàng Tào Nga: Hoàng quyên ấu phụ, ngoại tôn cữu 黃絹幼婦, 外孫臼, và phân tích như sau: hoàng quyên = sắc ti = tuyệt 絕; ấu phụ = thiếu nữ = diệu 妙; ngoại tôn = nữ tử = hảo 好; cữu = thụ tân = từ 辭, thành câu “tuyệt diệu hảo từ” (Thế thuyết tân ngữ 世說新語, Tiệp ngộ 捷悟). Câu thơ của Nguyễn Du ở đây ý nói Thúy Kiều vừa làm xong một bài thơ tứ tuyệt rất hay.
- (0186) tựa ngồi bên triện: Đào Duy Anh giải thích: “triện” chỉ cái cửa sổ có chấn song làm hình chữ triện. Nguyên truyện: Thúy Kiều đề bãi, tình tư bất khoái, ẩn kỉ nhi ngọa, mông mông lông lông 翠翹題罷, 情思不快, 隱幾而臥, 朦朦朧朧 (Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Hồi 2) Thúy Kiều đề thơ xong, tâm thần mỏi mệt, liền tựa ghế mà nằm, mơ mơ màng màng.
- (0187) tiểu kiều: 小嬌 người con gái xinh xắn.
- (0188) phong vận: 風韻 dung mạo tư thái xinh đẹp.
- (0188) thanh tân: 清新 tươi tắn.
- (0189) sương in mặt tuyết pha thân: Tản Đà ghi: Câu này ý nói trên mặt và trên thân người tiểu kiều ấy, còn như có sương tuyết in phủ, ấy là tả cái tình trạng của một người đêm tối đi đến, (…) từ nơi xa đó đến chơi vậy. Theo nguyên truyện: Thúy Kiều mang chỉnh y tương nghênh, kiến na nữ tử đạm trang tố phục 翠翹忙整衣相迎, 見那女子淡妝素服 (Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Hồi 2), nghĩa là: Thúy Kiều vội sửa áo xiêm đứng dậy đón chào, thấy cô gái ấy trang điểm sơ sài, mặc quần áo trắng.
- (0190) sen vàng: chỉ bước chân của người đàn bà đẹp. Điển cố: Đông Hôn Hầu 東昏侯 đời Nam Tề, yêu Phan phi 潘妃, sai làm hoa sen dát vàng xuống đất cho nàng đi, và bảo rằng: Thử bộ bộ sinh liên hoa dã 此步步生蓮花也 (Nam sử, Tề kỉ hạ) Mỗi bước chân nở ra một đóa sen. # chữ nôm “sen” ở đây khắc là: “nhạc”, 楽/樂 (nhạc). Tạm ghi là “sen” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (0190) lãng đãng: mập mờ, không rõ (theo Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim). # chữ nôm khắc là “đãng đãng”. Tạm ghi âm đọc là “lãng đãng” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (0191) dò la: dò = xét, hỏi, tìm kiếm cái gì; la = đi đây đó để tìm (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (0192) đào nguyên: 桃源 nguồn đào. Theo bài Đào hoa nguyên kí 桃花源記 của Đào Tiềm đời Tấn: Có người đánh cá ở Vũ Lăng theo dòng suối đi mãi vào tới rừng hoa đào, gặp người lánh nạn từ đời Tần ở trong ấy. Ý nói đến cảnh thần tiên.