1993. Nàng càng e lệ ủ ê,
1994. Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau.
1995. Hoa rằng: Bà đến bấy lâu,
1996. Dón chân đứng nấp độ đâu nửa giờ.
1997. Rành rành kẽ tóc chân tơ,
1998. Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
1999. Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
2000. Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.
2001. Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002. Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
2003. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004. Đàn bà thể ấy thấy âu một người.
1994. Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau.
1995. Hoa rằng: Bà đến bấy lâu,
1996. Dón chân đứng nấp độ đâu nửa giờ.
1997. Rành rành kẽ tóc chân tơ,
1998. Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
1999. Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
2000. Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.
2001. Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002. Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
2003. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004. Đàn bà thể ấy thấy âu một người.
Chú giải
- (1993) e lệ: lo sợ, ngại ngùng, không quả quyết. § Kiều lo sợ và e ngại rằng Hoạn thư đã thấy hết cảnh tượng Thúc sinh vừa lén lút đến gặp nàng ở Quan Âm các.
- (1994) hoa tì: con ở, đày tớ gái. Xem chú giải (1980) hoa tì.
- (1995) hoa rằng: hoa tì nói rằng.
- (1997) kẽ tóc chân tơ: từng li từng tí, không sót gì cả. # chữ nôm khắc là “chân kinh”. Như vậy, không hợp nghĩa với cả câu, và không hợp vần với câu 8 chữ ở trên.
- (1998) tỏ tường: biết rõ, hiểu rõ.
- (2000) nàng: # chữ nôm khắc sai thành “rằng”. Chữ đúng: 娘 (nương).
- (2003) xiết đâu: (hư vấn) không biết đâu là cùng. Xem chú giải (0073) xiết. Ghi chú: cả câu ý nói Kiều (vừa hiểu rằng Hoạn thư đã rình thấy rõ chuyện gặp nhau lén lút giữa Thúc sinh và Kiều) lấy làm kinh hãi vô cùng.
- (2004) thể ấy: cái cách đó, kiểu đó (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt). § Khảo dị: có bản chép là “thế ấy”.
- (2004) âu: ắt là, chắc hẳn, có lẽ. Xem chú giải (0282) âu. § cả câu 2004: (lược ngữ) Kiều nghĩ rằng người đàn bà có máu ghen ghê gớm và xử sự thâm độc như vậy có lẽ chỉ có Hoạn thư là một thôi, không có người thứ hai.