1597. Tình riêng chưa dám rỉ răng,
1598. Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
1599. Cách năm mây bạc xa xa,
1600. Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
1601. Được lời như mở tấc son,
1602. Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
1603. Long lanh đáy nước in trời,
1604. Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
1606. Xe hương nàng đã thuận đường quy ninh.
1607. Thưa nhà huyên hết mọi tình,
1608. Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
1598. Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
1599. Cách năm mây bạc xa xa,
1600. Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
1601. Được lời như mở tấc son,
1602. Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
1603. Long lanh đáy nước in trời,
1604. Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
1606. Xe hương nàng đã thuận đường quy ninh.
1607. Thưa nhà huyên hết mọi tình,
1608. Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
tranh Lưu Văn Sìn (1910-1983)
Long lanh đáy nước in trời
Chú giải
- (1597) rỉ răng: hé răng nói.
- (1598) tiểu thư: tiếng gọi con gái nhà giàu sang phú quý. Xem chú giải (1557) tiểu thư.
- (1598) nhủ qua: nhủ = bảo, nói, nhắn (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt). § 2 câu 1597-1598: (lược ngữ) Thúc sinh ý muốn đi Lâm Tri nhưng chưa dám nói, Hoạn thư đã đoán biết bụng dạ Thúc sinh, nên làm bộ bảo qua loa với chồng rằng…
- (1599) mây bạc: do chữ “bạch vân” 白雲 chỉ nhà cha mẹ. Cả câu Hoạn thư có ý nhắc nhở Thúc sinh đã xa cha mình một năm rồi. Điển cố: Địch Nhân Kiệt 狄仁傑 đi làm quan xa, một hôm lên núi cao vọng về cố hương, thấy mây trắng bay, nhớ tới cha mẹ, bảo với người chung quanh rằng: Ngô thân xá kì hạ 吾親舍其下 Nhà cha mẹ ta ở dưới kia kìa (Tân Đường thư 新唐書, Địch Nhân Kiệt truyện).
- (1600) Lâm Tri: tên huyện chỗ cha Thúc sinh đang ở. Xem chú giải (0920) Lâm Tri.
- (1600) thần hôn: thăm hỏi cha mẹ. Xem chú giải (0918) thần hôn. § Cả câu 1600: (lược ngữ) Hoạn thư nhắc khéo Thúc sinh nhớ về thăm cha ở Lâm Tri.
- (1601) tấc son: do chữ “thốn tâm” 寸心 nghĩa là tấc lòng.
- (1602) câu: ngựa. Xem chú giải (0139) câu.
- (1603) long lanh đáy nước: (đảo ngữ, lược ngữ) 2 câu 1603-1604: làn nước trong vắt in cả vòm trời trong đáy nước; khói xanh bốc cao dựng lên một bức tường thành, và ánh mặt trời chiếu vào núi, khiến cho núi như phơi ra sắc vàng. Ghi chú: một cảnh thơ mộng trên đường đi vào mùa thu; họa sĩ Lưu Văn Sìn (1910-1983) vẽ ra hai câu thơ này thành một bức tranh rất đẹp.
- (1605) câu: ngựa. Xem chú giải (0139) câu.
- (1605) vừa gióng: “gióng” = đứng theo hàng, xếp vào hàng, sắp vào hàng (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt). Thí dụ: gióng hàng. § Câu 1605: (lược ngữ) Hoạn thư chỉ chờ Thúc sinh đánh roi ngựa lên đường đi xa… (là lấy xe về thăm mẹ mình ngay).
- (1605) dặm trường: đường dài. # chữ nôm “trường” khắc là “dài”. Như vậy không hợp vần với câu 8 chữ ở trước và câu 8 chữ theo sau.
- (1606) xe hương: do chữ “hương xa” 香車 xe làm bằng gỗ thơm; phiếm chỉ xe hoặc kiệu trang hoàng đẹp đẽ; cũng chỉ xe dành cho phụ nữ đi. ◇Âu Dương Tu 歐陽修: Bách thảo thiên hoa Hàn thực lộ, Hương xa hệ tại thùy gia thụ 百草千花寒食路, 香車繫在誰家樹 (Điệp luyến hoa 蝶戀花, Kỉ nhật hành vân hà xứ khứ 幾日行雲何處去, Từ 詞). Tạm dịch: Trăm cỏ nghìn hoa, trên đường vào tiết Hàn thực, Xe hương đem buộc vào cây nhà ai.
- (1606) quy ninh: 歸寧 (con gái ở nhà chồng) về thăm hỏi cha mẹ. # chữ nôm “quy” khắc sai. Chữ đúng: 歸 (quy).
- (1607) nhà huyên: chỉ mẹ. Xem chú giải (0224) nhà huyên.
- (1608) bạc: đơn bạc, phụ bạc, nghĩa là không trung hậu.
- (1608) đen: đen tối, hẩm hiu. § Ghi chú: cả câu này ứng với câu 1538 ở trên: Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa.