1249. Thờ ơ gió trúc mưa mai,
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi giùi mài một thân.
1251. Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
1252. Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau.
1253. Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
1254. Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
1255. Dặm ngàn nước thẳm non xa,
1256. Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
1257. Sân hòe đôi chút thơ ngây,
1258. Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình?
1259. Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260. Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi giùi mài một thân.
1251. Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
1252. Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau.
1253. Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
1254. Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
1255. Dặm ngàn nước thẳm non xa,
1256. Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
1257. Sân hòe đôi chút thơ ngây,
1258. Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình?
1259. Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260. Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Chú giải
- (1249) gió trúc mưa mai: trúc gặp gió, hoa mai được mưa. Đây nói cảnh vui và đẹp mà mình thờ ơ không biết đến (theo Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim). Trần Gia Đái 陳家帶: Kinh đắc quý tiết đích trúc phong mai vũ 經得季節的竹風梅雨 (Hoàng hoa hạc đính lan 黃花鶴頂蘭).
- (1251) ôm lòng: giữ lấy trong lòng. # chữ “ôm” khắc sai nét: ⿰忄音 (bộ Tâm+âm) thay vì chữ đúng là ⿰扌音 (bộ Thủ+âm). § Khảo dị: bản quốc ngữ của Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim ghi là “nỗi lòng”.
- (1251) đòi đoạn: nhiều khúc, nhiều chặng.
- (1252) vò: làm cho nhàu, nhăn rúm lại. Xem chú giải (0488) vò.
- (1252) dần: đánh, đập mạnh. Thí dụ: dần cho một trận (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (1253) chín chữ cao sâu: cửu tự cù lao 九字劬勞. Thi Kinh 詩經: Ai ai phụ mẫu, Sinh ngã cù lao 哀哀父母, 生我劬勞 (Tiểu Nhã 小雅, Lục nga 蓼莪) Thương ôi cha mẹ, Sinh con bao công khó nhọc. Chín chữ tóm tắt công lao khó nhọc của cha mẹ, đó là: sanh 生 (đẻ), cúc 鞠 (nâng niu), phủ 撫 (vỗ về), súc 畜 (nuôi cho bú mớm), trưởng 長 (nuôi cho lớn), dục 育 (dạy dỗ), cố 顧 (trông nom), phục 復 (săn sóc), phúc 覆 (che chở gìn giữ).
- (1254) bóng dâu: tang du 桑榆. Lúc mặt trời lặn, ánh sáng còn rọi vào những cây dâu, cây du; nên “tang du” 桑榆 mượn chỉ chiều tối. Cũng dùng để ví với tuổi già xế bóng, như “tang du mộ cảnh” 桑榆暮景 bóng ngả cành dâu (tuổi già sức yếu).
- (1255) dặm ngàn: dặm rừng, đường rừng. Xem chú giải (0912) ngàn.
- (1257) sân hòe: Vương Hựu 王佑 đời Tống trồng ba cây hòe ở sân, mong rằng con cháu sẽ hiển quý. Quả nhiên, họ Vương về sau trở nên hiển hách, người đời tôn là Tam hòe Vương thị 三槐王氏. Ở đây “sân hòe” mượn điển này để nói về anh em.
- (1257) đôi chút thơ ngây: Kiều nghĩ đến hai em còn nhỏ là Thúy Vân và Vương Quan.
- (1258) trân cam: 珍甘 thức ăn ngon quý. Ở đây chỉ những thức ăn ngon ngọt để phụng dưỡng cha mẹ. Câu 1258: (lược ngữ) Kiều lo ngại tự hỏi không biết hai em còn nhỏ dại có thể thay mình chăm sóc cha mẹ hay không.
- (1258) việc: # chữ nôm khắc nhầm thành 沒 (một). Chữ đúng: 役 (dịch). § Đây là một chữ nôm đọc âm theo nghĩa chữ Hán 役 (dịch).
- (1259) nguyện ước ba sinh: tam sinh nguyện 三生願 nguyện vọng đời đời gắn bó làm vợ chồng.
- (1260) ai: chỉ Kim Trọng.
- (1260) biết tình chăng ai: Kiều nhớ tới Kim Trọng và tự hỏi chàng Kim có biết đến nỗi niềm tình cảm của nàng hay không. § Khảo dị: có bản nôm chép là “thấu tình chăng ai” (ý tứ có phần thiết tha hơn).