0325. Xương mai tính đã rũ mòn,
0326. Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay.
0327. Tháng tròn như gửi cung mây,
0328. Trần trần một phận ấp cây đã liều.
0329. Tiện đây xin một hai điều,
0330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?
0331. Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
0332. Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong.
0333. Dù khi lá thắm chỉ hồng,
0334. Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
0335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,
0336. Trẻ con đã biết đâu mà dám thưa.
0326. Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay.
0327. Tháng tròn như gửi cung mây,
0328. Trần trần một phận ấp cây đã liều.
0329. Tiện đây xin một hai điều,
0330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?
0331. Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
0332. Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong.
0333. Dù khi lá thắm chỉ hồng,
0334. Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
0335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,
0336. Trẻ con đã biết đâu mà dám thưa.
Chú giải
- (0325) xương mai: bởi chữ mai cốt 梅骨, tức là cốt cách của hoa mai.
- (0327) tháng tròn như gửi cung mây: lấy nghĩa câu nguyệt kí tâm vu nguyệt cung 月寄心于月宮 tháng nào cũng để bụng ở cung tiên trong mặt trăng (theo Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim). § Khảo dị: bản Duy Minh Thị 1872 ghi là “Năm tròn như gửi cung mây”; “năm tròn” = ngũ luân 五輪 (thuật ngữ Phật giáo). Trong Mật giáo, Ngũ luân chỉ cho 5 trí luân, tức là 5 đại: đất, nước, lửa, gió và không. Năm đại này như cái vòng tròn xoay chuyển cùng khắp, không khiếm khuyết nên gọi là “ngũ luân” (5 vòng tròn). Nếu đem 5 phần của thân thể chúng sinh (đầu, mặt, ngực, rốn, đầu gối) tương ứng với 5 đại, theo thứ tự phối hợp với 5 luân (không, gió, lửa, nước, đất) và 5 chữ Tất Đàm (空 , 風, 火, 水, 地) để quán tưởng thì gọi là Ngũ luân quán, hoặc Ngũ luân thành thân quán (Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典). Tham khảo: Nguyễn Tài Cẩn chú thích: “nhà chùa nói ngũ luân là nói thân hình một con người đang thành kính hành lễ”. Và câu 0327 có thể hiểu như sau: “Thân hèn như gửi cung mây”, hoặc là: “Lòng thành như gửi cung mây” (Tư liệu truyện Kiều… bản sơ thảo Đoạn Trường Tân Thanh, trang 26).
- (0328) trần trần một phận ấp cây: Có người nước Tống cày ruộng. Trong ruộng có gốc cây. Con thỏ chạy đụng gốc cây, gãy cổ chết. Người đó bèn bỏ cày mà giữ gốc cây, mong lại bắt được thỏ (Hàn Phi Tử 韓非子, Ngũ đố 五蠹, Thủ châu đãi thố 守株待兔) (Trần Trọng San dịch). Ở đây ý nói cứ đợi mãi mà không thấy kết quả.
- (0328) liều: không sợ thiệt hại hay nguy hiểm, tỏ ra táo bạo, bạt mạng, bất kể, bất chấp hiểm nguy (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (0330) đài gương: bởi chữ kính đài 鏡臺 chỗ đặt gương soi để chải tóc trang điểm của đàn bà. Cũng như trang đài 妝臺. Ở đây là tiếng tôn xưng người đẹp.
- (0330) dấu bèo: bởi chữ bình tung 萍蹤, nghĩa là hành tung vô định, phiêu bạc khắp nơi như cánh bèo trôi nổi. Xem chú giải (0219) bèo giạt. Ở đây là lời Kim Trọng nhún mình.
- (0332) băng tuyết: 冰雪 trong sạch, trinh khiết (như giá tuyết).
- (0332) phỉ phong: 菲葑 Thái phong thái phỉ 采葑采菲 (Thi Kinh, Bội phong 邶風, Cốc phong 谷風) Hái rau phong rau phỉ. Ở đây ý nói mình quê mùa mộc mạc.
- (0333) lá thắm: xem chú giải (0268) lá thắm.
- (0333) chỉ hồng: bởi chữ xích thằng 赤繩, ý nói nhân duyên vợ chồng đều có định trước. Tương truyền Vi Cố 韋固 đi kén vợ, gặp một ông già coi sách dưới trăng, bảo đó là hôn thư. Cứ theo sách ghi, ông già lấy sợi chỉ đỏ (còn nói là: hồng ti 紅絲 tơ hồng) buộc chân những người phải lấy nhau. Ông già nói Vi Cố sẽ lấy một đứa con gái nhà nghèo hèn. Vi Cố không muốn, tìm cách giết đi, nhưng sau vẫn lấy đúng người này làm vợ (Lí Phục Ngôn 李復言, Tục u quái lục 續幽怪錄, Định hôn điếm 定婚店).