1657. Gió cao ngọn lửa càng cao,
1658. Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu.
1659. Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
1661. Chạy ra chốn cũ phòng hương,
1662. Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
1663. Ngay tình ai biết mưu gian,
1664. Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai.
1665. Thúc ông sùi sụt vắn dài,
1666. Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
1667. Di hài nhặt sắp về nhà,
1668. Nào là khâm liệm nào là tang trai.
1658. Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu.
1659. Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
1661. Chạy ra chốn cũ phòng hương,
1662. Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
1663. Ngay tình ai biết mưu gian,
1664. Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai.
1665. Thúc ông sùi sụt vắn dài,
1666. Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
1667. Di hài nhặt sắp về nhà,
1668. Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Chú giải
- (1659) hớt hơ hớt hải: hoảng sợ, hoảng hồn, hốt hoảng (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (1660) quàng: vẹo, tréo, lệch, trái, ngược, không thẳng; không đúng, không phải, không vững, bậy bạ. Ghi chú: “tìm kiếm quàng xiên” = tìm không đúng cách thức, không đúng lề lối, không ra đâu vào đâu (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt).
- (1661) phòng hương: chỗ ở của đàn bà con gái. Xem chú giải (1280) hương khuê.
- (1662) trong tro: # chữ nôm khắc là “trông than”. Tạm ghi âm đọc là “trong tro” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (1664) còn bàn: 2 câu 1661-1664: (lược ngữ) người nhà vào trong phòng Kiều thấy một đống xương cháy tàn, nghĩ ngay đó là xác chết của Kiều, không nghi ngờ gì cả, không phải bàn cãi chi nữa. Họ có biết đâu đã mắc phải mưu gian của bọn Khuyển Ưng. § Xem lại 2 câu 1649-1650: Sẵn thây vô chủ bên sông, Đem vào để đó lận sòng ai hay? # chữ nôm khắc là “có bàn”. Tạm ghi âm đọc là “còn bàn” theo nhiều bản nôm phổ biến khác.
- (1666) nết na: có tính nết tốt.
- (1667) di hài: 遺骸 xác người chết còn lại.
- (1668) khâm liệm: 衾殮 bọc thây người chết trước khi bỏ vào quan tài.
- (1668) tang trai: 喪齋 làm đám tang và lễ chay (trai giới).